“Có lẽ mỗi người là một
chiếc lá trên dòng nước cuộc đời chảy xiết, một áng mây lửng lơ trên nền cao
vời vợi của cõi trầm luân, không hẹn trước sẽ tấp vào bến bờ ghềnh thác nào,
hay sẽ tan rã giữa xanh thẳm vô biên cõi tạm nào!
Ở gần vào tuổi “xưa nay
hiếm”, tôi lại cảm thấy dòng thời gian trôi qua đời mình chậm - rất chậm! Thời
gian không ồ ạt cuồn cuộn như thuở thanh xuân; cũng không rộn ràng, réo gọi như
thời trung niên năm mươi nữa; mà dòng thời gian tháng năm gần cuối đời như ngày
càng lơ lửng, nhẹ nhàng, chậm chạp hơn! “ (MVL)
Những dòng chữ này từ “Đôi lời tâm sự” trong cuốn hồi ký “Như áng
mây trôi” của nhà văn Mang Viên Long tưởng chừng như đơn giản, vậy mà nó đã chạm
ngay trái tim tôi, khiến đêm hôm đó tôi đã đọc xong một mạch từ
trang đầu đến trang cuối (cái ngày mà vợ chồng tôi
ghé qua nhà ông để gởi cuốn sách “Một phút tự do” của nhà văn Elena nhờ gởi
tặng, tôi được ông tặng cuốn hồi ký này) .
Thật sự tôi biết đến ông như một tình cờ. Vào những ngày cuối năm
2012, một buổi tối, tôi phải viết báo cáo tổng kết cho Công ty để ngày mai
thông qua cuộc họp, đến hai giờ sáng tôi viết mới xong, nhưng vẫn còn tỉnh táo,
tôi chưa buồn ngủ nên lướt web một chút, thấy truyện ngắn“ Chiếc kính tri thức
của chàng ngốc” đăng trên một trang nào đó, lâu rồi tôi không nhớ. Đọc qua,
thấy thú vị quá, tôi đọc lại và thấy tên tác giả là Mang Viên Long. Sau này,
qua nhà văn Trương văn Dân, tôi mới biết ông là một nhà văn quê ở An Nhơn -
Bình Định, trước 1975 ông đã có nhiều sách xuất bản, viết cho các báo và tạp
chí; sau 1975 ông vẫn tiếp tục xuất bản nhiều tập truyện và tiểu luận - tạp bút.
Tôi
không dám nhận định và phẩm bình tác phẩm của Ông, chỉ viết ra đây những cảm
nhận của một độc giả khi cầm cuốn hồi ký “Như áng mây trôi” trong tay. Mười ba phần
trong cuốn hồi ký này của nhà văn Mang Viên Long, bắt đầu từ “Tuổi thơ lặng lẽ”
và “lớn lên trong bất hạnh”; những “giải bày tâm trạng về tình yêu và chiến
tranh” cho đến những chuyến “lãng du tùy duyên”; những lần vào chùa, những giấc
mơ mầu nhiệm... cho đến một ngày có duyên gặp được “Pháp Bảo Đàn Kinh”, mỗi một
câu chuyện là từng cung bậc cảm xúc về hồi ức và những kỷ niệm buồn vui trong
cuộc đời ông; là sự hoài niệm về những tháng ngày thăng trầm, bất hạnh mà Ông
đã đi qua theo dòng chảy của thời gian, nhưng đó cũng là con đường dẫn Ông đến
tận hưởng “niềm vui chân chính, dài lâu”,
tận hưởng một niềm hạnh phúc vô biên mà con người từng khát khao để đạt được: “Từ ngày tháng có duyên gặp được “Kinh Pháp
Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng, tôi dần
cảm thấy giảm đi rất nhiều nỗi ưu phiền, khổ đau! Tôi cũng nhận ra lòng an
bình, tỉnh táo, không còn nhiều âu lo, băn khoăn hay toan tính cho ngày mai mờ
mịt phía trước nữa!” (trang 140).
Ông
viết về nỗi bất hạnh cứ đeo bám đời mình, về những tháng ngày bị “mất dạy” phải
đi khuân vác, thợ hồ, chở gạch... Những
tưởng những trang viết của ông là lời than oán, hận thù…, nhưng không, chân lý
Phật giáo đã bàng bạc trong toàn bộ cuốn hồi ký “Như Áng Mây Trôi”. “Kinh Pháp
Bảo Đàn” như một liều thuốc quý, ông ứng dụng Kinh Pháp Bảo Đàn vào trong đời
sống thường ngày, không chạy theo những biến động, đổi thay trong cuộc đời để tìm
thấy cho mình một sự bình yên: “ Tôi tự
chế ngự và giữ gìn tâm mình, tránh không để ngoại cảnh, ngoại duyên khuấy động,
lung lạc như xưa! Lục Tổ đã dạy: “Tâm động chứ không phải phướn động!”... Ta bà
là biển khổ hay niết bàn - cũng chính tại Tâm ta mà sinh! “Chẳng phải cha mẹ
hay bà con nào hết, nhưng chính tâm niệm hướng về hành vi chánh thiện; làm cho
mình cao thượng hơn” (Pháp cú 43 -
phẩm Cittavago” (trang 140), và chính điều đó đã giúp Ông hóa giải được mọi
niềm đau nỗi khổ trong cõi nhân gian này. Ông đón nhận những nghịch cảnh trong
cuộc đời một cách vui vẻ; dùng lý nhân duyên để hóa giải sự đổ vỡ trong tình
yêu, để cuối cùng ông nhận ra mình là con người hạnh phúc nhất: “Yêu Thương người (và được Yêu Thương) phải
chăng là niềm Hạnh Phúc đích thực cho cuộc đời nơi cõi tạm của tất cả chúng
ta?” (trang 147)
Tuy
cuộc đời ông gặp nhiều bất hạnh từ tuổi thơ cho đến khi trưởng thành, nhưng ông
rất may mắn là Phật pháp đã ảnh hưởng rất lớn trong cuộc đời ông, có lẽ ông đã
gieo hạt giống lành từ trong tiền kiếp. Từ nhỏ, ông đã có duyên được mẹ dạy cho
niệm Phật mỗi khi gặp chuyện không hay, được vào chùa nghe pháp, lớn lên ông
gặp được bậc minh sư và đặc biệt ông có duyên lớn gặp được “Kinh Pháp Bảo Đàn”
của Lục Tổ Huệ Năng; rồi những giấc mơ nhiệm mầu đi vào giấc ngủ đã hóa giải được
những phiền não trong đời sống hàng ngày: “....trong
nhiều chục năm sống trong khổ đau và kham nhẫn - tôi cũng thường có những giấc
mơ ngắn bất ngờ, mà tôi chưa hề có thời gian nghĩ gì (hay mơ ước) đến trước đó,
khi đi vào giấc ngủ mệt mỏi hằng đêm, nhưng “dấu ấn” của nó thật êm đềm, sâu
đậm, lặng lẽ trong tôi, như để xóa dịu, nhắc nhở, và an ủi tôi rất nhiều mỗi
lần nhớ lại” (trang 106), cho nên :
“Những tháng ngày còn lại ít ỏi của đời
mình, tôi vẫn tiếp tục “trò chơi” đã chọn, với tấm lòng thành hiến dâng, và hy
vọng cuộc sống mỗi ngày càng thêm tốt đẹp, có ý nghĩa hơn cho tất cả chúng ta,
cho dầu Trái Tim bị hẹp động mạch chủ của tôi đã hẹp quá mức cho phép”
(trang 146), đó cũng là sự an tĩnh nội tâm và thanh thản trong thân tâm là vậy!
Tôi
rất thích cái cách ông mượn cảnh để diễn tả nội tâm, từ việc diễn tả tâm trạng
lo lắng, sợ hãi: “Gió thốc vào ào ào mang
theo cái lạnh của mưa, của nước lũ, của bóng đêm dày đặc bên ngoài, càng khiến
hai chị em tôi thêm hoang mang, lo sợ” (trang 12) cho đến cái cách ông tìm
thấy một chỗ để ngã lưng: “Thầy trò vừa
uống trà vừa trò chuyện đến khuya… … Tôi cũng đã được Thầy dành cho một chiếc
cốc nhỏ để ngã lưng, có thể nhìn ngắm trăng và đón gió biển qua khung cửa bỏ
trống” (trang 42). Phải chăng ngắm trăng để tìm lại chính mình, để trở về
“bản lai diện mục” và đón gió biển qua khung cửa trống như để tâm hồn ông lắng
lại, như một cách ông thiền định để “vượt
thế tục đi vào cõi riêng của tuệ giác”, thật là sâu sắc và đầy tính nghệ
thuật.
Tôi
chưa đọc nhiều lắm về các tác phẩm của ông, nhưng tôi nhận ra ở những trang viết trong tác phẩm của ông có một lối
đi riêng. Ở đây, bằng cách thông qua cuộc đời mình, “Như áng mây trôi” đã thể
hiện được ý nghĩa nhân văn sâu sắc về Tình Yêu Thương và phương pháp cứu cánh
để giúp con người thoát ra khỏi sự khổ đau, để tìm đến một hạnh phúc đích thực,
đó là một vẻ đẹp sáng ngời trong cuốn hồi ký này. Ngoài ra, cuốn hồi ký này như
lời tự sự chân tình, giúp cho những ai gặp bế tắc trong cuộc đời dễ tìm cho
mình một niềm tin vững vàng: “...Tôi viết
lúc vắng khách, một cách nhiệt tình, và sống vô tư mỗi ngày giữa bao bất hạnh
còn đeo bám lấy tôi, mà không than thở, không thất vọng! Tôi học được câu “Thúc
liễm thân tâm, tam thời bất túc” từ những tháng năm sống ở chùa Phi Lai, nên đã
an nhiên đón nhận mọi nghịch duyên, coi việc ăn uống là phục dược, xem mọi khổ
đau, bất hạnh như một nấc thang, (hay để trả dần “món nợ” mà tôi đã “vay” từ nhiều kiếp trước; luôn tin rằng
sẽ được đi dần đến chỗ an lành...” (trang 141)
Tôi
nghĩ nhà văn Mang Viên Long không có chủ định viết hồi ký là để mọi người biết
ông là ai? Ông đã sống như thế nào, may
mắn hay bất hạnh? thành đạt hay thất bại, hạnh phúc hay khổ đau; hoặc là để
khoe với mọi người rằng ông đã từng làm gì và sống ở đâu? Mà tôi nghĩ, ông chỉ muốn
ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ của đời mình, những trải nghiệm từ trong
cuộc sống, những sự kiện trong từng giai đoạn của xã hội mà ông đã từng đi qua
như một chứng nhân, ghi lại những cảm xúc lắng đọng trong tâm hồn, những kỷ
niệm khó phai mờ trong tâm trí, đặc biệt là cái duyên đưa ông đến con đường đến
với Phật.... như một cách để ông chia sẻ yêu thương với người thân, với bạn bè
văn chương, với bạn đọc, với những tâm hồn đa cảm hoặc là với những phận người
kém may mắn, luôn gặp những bất hạnh trong cuộc sống.... cho nên văn chương của
ông rất chân thật, rất tự nhiên, không phù phiếm, không sáo rỗng mà nó toát lên
một cái gì đó rất gần gũi với đời sống tinh thần của mỗi người.
Trong
ý nghĩa thâm trầm, sâu lắng, “NHƯ ÁNG MÂY TRÔI” cũng là cách để tìm lại chính
mình, là hành trang chuẩn bị cho ngày trở về bến bờ giác ngộ.
Tháng 03/2015
Trần Kim Đức
"cái ngày mà vợ chồng tôi ghé qua nhà ông để gởi cuốn sách “Một phút tự do” của nhà văn Elena nhờ gởi tặng, tôi được ông tặng cuốn hồi ký này" là cái ngày chúng tôi về Phú Phong để dự họp mặt đầu năm 2015 của cựu hs K4 Trường TH Quang Trung Bình Khê đấy!
Trả lờiXóa