Drop Down MenusCSS Drop Down MenuPure CSS Dropdown Menu
Trang Giao Lưu Cựu HS Trung Học Quang Trung Bình Khê - Bình Định

Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

VUA MINH MẠNG VÀ TÀU CHẠY BẰNG MÁY HƠI NƯỚC


Phải thừa nhận rằng vương triều Nguyễn vào thời vua Minh Mạng, nước ta đã có được những năm gọi là hưng thịnh. Về mặt nội trị, loạn lạc trong nước liên tục xảy ra, nhưng với cải cách hành chánh toàn quốc, tập quyền trung ương… đã bảo đảm cho Minh Mạng đưa quân bảo hộ cả Lào lẫn Chân Lạp. Đất nước thời đó được người phương Tây nhìn nhận là một cường quốc trong khu vực, trong đó không thể không có bản lĩnh của chính vua Minh Mạng đem lại.

Ở đây ta thử xét đến việc Minh Mạng áp dụng kỷ thuật cơ khí Phương Tây, ông đã nhanh chóng cho đóng tàu chạy bằng máy hơi nước, cải tổ thủy quân. Trong tình thế thời bấy giờ, thủy – hải quân phải vững mạnh mới bảo đảm việc biên phòng. Xâu chuỗi các sự kiện mà bộ sử Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu ghi chép, xem lại Minh Mạng đã có những động thái nào về việc nầy. Kết quả thu lượm ra sao.

- “Tháng 3 năm 1834, Vua sai Hộ thành Binh mã Phó sứ là Trương Viết Soái chế ra xe “thủy hỏa ký tế”, nhờ sức nước chảy làm cho máy chạy”.

Có thể đây là loại máy giống như guồng xe nước mà trước đây thịnh hành ở Quảng Ngãi, nông dân dùng đưa nước sông lên ruộng. Vì sau đó thấy Minh Mạng lệnh cho các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định… tu bổ loại xe nầy, để giã thuốc súng.

- “Tháng 7 năm 1837, cho làm xe máy cũng chạy bằng sức nước dùng để cưa ván, máy bắt chước theo cách của Tây. Sau đó cho đặt máy tại thác Dài, làng Dương Hòa nơi Hữu trạch nguyên”.

Hữu trạch nguyên chắc đúng là vùng thượng lưu sông Hương ở Huế. Minh Mạng đã cho chế tạo máy móc chạy sức nước thay sức người để giã thuốc súng và cưa ván. Cưa ván để làm gì !? Có phải dùng để đóng tàu không !? Không thấy sách chép. Chỉ biết 2 năm sau đó, đích thân Vua ngự ra cầu Bến Ngự để duyệt xem tàu chạy bằng máy hơi nước vừa tự chế được. Từ đó có thể hình dung được những việc đó có mối liên quan với nhau.

- “Tháng 4 năm 1839, Ngài ngự chơi cầu Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu máy hơi. Khi trước khiến sở Võ khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đàng vỡ nồi nước, máy không chạy. Người đốc công phải bị xiềng, quan bộ Công là Nguyễn Trung Mậu, Ngô Kim Lân vì cớ tâu không thiệt, đều bị bỏ ngục.

Bấy giờ cho chế tạo lại, các máy vận động lanh, thả xuống nước chạy mau. Ngài ban thưởng Giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn. Còn Đốc công và binh tượng được thưởng chung 1 nghìn quan tiền.

Ngài truyền rằng tàu nầy mua bên Tây cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí”.

Qua đoạn sử chép trên, ta thấy việc thưởng phạt của Minh Mạng thể hiện mối quan tâm việc chế tạo tàu, áp dụng cộng nghệ phương Tây trong việc trang bị quốc phòng. Tiếc một điều là đến nay ta chưa rõ hình dáng, kích thước của tàu. Tàu bọc đồng hay toàn ván gỗ, mức sử dụng nhiên liệu, tải trọng là bao nhiêu. Binh tượng của sở Võ khố học nghề chế tạo ở đâu, hay là máy chạy bằng hơi nước phải mua của nước ngoài… Đó là những điều cần phải biết, để xác định nổ lực của quốc gia trong việc phòng nguy biến ngoại xâm.

Tàu chiến Pháp ở bán đảo Sơn Trà

Trước đó vào tháng Chạp năm 1836, đã xảy ra sự kiện một tàu chiến của Pháp vào đậu ở hòn Mỏ Diều thuộc Quảng Nam (phía Tây bán đảo Sơn Trà bây giờ). Vua khiến người ra hỏi, họ trả lời rằng tàu ở cảng Tu lông (Toulon) đi thao diễn đường biển đã hơn một năm, nay từ Mã Cao (Macao) trở về, xin ở lại đây một vài ngày để lấy củi. Nhưng sáng hôm sau tàu nầy bắn một phát súng lớn rồi rời bỏ đi. Đây là một dấu hiệu mà bất cứ lực lượng biên phòng nào cũng phải quan tâm, lo lắng. Huống gì tàu chiến của Tây phương thời đó, đối với Việt Nam khác nào con cá mập trước bầy cá lòng tong.

Vì tình thế ấy, cũng trong tháng 10 năm 1839 ấy, Minh Mạng có những động thái tiếp theo :

- “Cho chế tạo thêm một tàu lớn hơn, phí tổn 11 vạn quan tiền. Ngài truyền bộ Hộ rằng Ta muốn công tượng nước ta tập nghề máy móc, vậy nên không kể phí tổn”.

Không chỉ bao nhiêu đó, lúc ấy Minh Mạng lập tức phái các sứ bộ :

- Trần Tú Đỉnh cùng Đào Trí Phú đi Giang Lưu Ba (Indonesia)
- Trần Bưu, Cao Hữu Tấn qua Tam Ba Răng (!?).
- Nguyễn Đức Long, Lê Bá Tú qua Tiểu Tây Dương (!?)
- Nguyễn Đãi Bản, Nguyễn Du, Lê Văn Thu, Đỗ Mậu Thường đi Hạ Châu (vùng Singapore và Malaca).
- Trần Viết Xương, Tôn Thất Thường qua thẳng bên châu Âu.

Nhiệm vụ các sứ bộ gọi là ra ngoại dương làm việc công, mua đồ. Nhưng chắc chắn không ngoài mục đích mua tàu trang bị quốc phòng. Vì sau vào triều Thiệu Trị năm 1843, cũng phái bộ Đào Trí Phú đó, phải tiếp tục sứ mệnh là qua Singapore mua về chiếc tàu trị giá 28 vạn quan tiền, chuyến đi mà có Cao Bá Quát tháp tùng để ra công chuộc tội.

Mộc bản nói về Dụ của Minh Mạng ban hành quốc hiệu Đại Nam

Năm 1839 Minh Mạng đã lo tự đóng tàu chạy bằng máy hơi nước, cũng tìm cách mua bổ sung tàu sản xuất từ nước ngoài. Mới trước đó một năm, vua cũng đã ban hành quốc hiệu là Đại Nam. Những việc nầy đã biểu hiện tinh thần tự lực, tự cường, tự chủ của một quốc gia.

Minh Mạng mất năm 1840, tinh thần trên đặt lên vai vua Thiệu Trị. Nhưng việc giữ nước không chỉ tự lực tự cường, chỉnh đốn binh bị, còn phải cần có chính sách ngoại giao phù hợp, khoan sức dân, lo cho dân… mới huy động được sức mạnh của quốc gia.

Thiệu Trị, Tự Đức đã không đủ bản lĩnh. Dựa vào thiên triều nhà Thanh bên Tàu thì Đại Thanh lại đang bị Tây phương uy hiếp, bọn giặc Khách Tam Đường, rồi giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng từ bên đó thừa cơ tràn sang cướp phá mất tỉnh biên giới. Người dân trong nước thì như đang chìm trong cõi u minh. Tàu bè ngoại bang ra vô cảng biển quốc gia mà như đi vào chỗ không người, khiêu khích thăm dò… Rồi việc phải đến đã đến, ngày 01.9.1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Rigault De Genouilly, đã nổ súng ở cửa biển Đà Nẵng, mở màn sự kiện đô hộ 100 năm nước Việt.

Quân Pháp đổ bộ vào cửa biển Đà Nẵng năm 1858

Những con tàu chạy bằng máy hơi nước của vua Minh Mạng, năm 1840 được vua đặt cho tên :

- Chiếc lớn gọi là Yên Phi
- Chiếc vừa gọi là Vân Phi
- Chiếc nhỏ gọi là Vũ Phi

Sau nầy Thiệu Trị mua thêm về chiếc Điện Phi vào năm 1843.

Những chiếc tàu nầy đã nói lên được nổ lực đáng ghi nhận của một vương triều, đã minh chứng cho việc trang bị vũ khí chẳng đủ để giữ nước trước tham vọng của ngoại bang.

Tháng 7.2017
Phan Trường Nghị


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét