Drop Down MenusCSS Drop Down MenuPure CSS Dropdown Menu
Trang Giao Lưu Cựu HS Trung Học Quang Trung Bình Khê - Bình Định

Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2017

TIẾNG CHIM KÊU BÊN BỜ SÔNG CÔN


Ở Bình Định nay còn lưu truyền lại câu ca xưa:

Củ lang Đồng Phó
Đỗ phộng Hà Nhung
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi lăn đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhơn còn bỏ huống chi cái gùi.

Tiếng chim kêu ở suối Từ Bi chỉ là sự than vãn tình đời đổi trắng thay đen. Hẳn ở nơi nào cũng có. Nhưng khi đã là phương dao thì câu ca thể hiện được địa phương tính, chỉ có ở đây mà không có ở nơi khác. Thử xét lại tính địa phương thông qua câu ca trên.

Về địa danh Đồng Phó. Đồng Phó nay vẫn còn tên, hiện là thị tứ của xã Tây Giang, huyện Tây Sơn, Bình Định. Đồng Phó bé tí tẹo, “đi năm phút đã về chốn cũ”. Nhưng nơi đây có Hòn Lãnh Lương, ngày xa xưa là chỗ đồn tích lương thảo của nghĩa binh Tây Sơn. Đồng Phó còn có Hóc Yến nằm dưới chân Hòn Bà Phù, là nơi mà ba anh em nhà Tây Sơn đã đãi yến tiệc cho quân tướng, trước khi khởi binh tiến về Đông đánh chiếm Tuy Viễn, rồi phủ thành Quy Nhơn. Để rồi sau đó tiến vào Nam đánh chìm 200 chiến thuyền của quân Xiêm La (Thái Lan), đi ra Bắc phá tan 20 vạn quân Mãn Thanh (Trung Hoa).

Khoai lang Đồng Phó xưa nổi tiếng ngon, sai củ, nhưng đến thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, khoai lang Đồng Phó bắt đầu lép vế trước giống khoai các khu Dinh Điền ở Tây nguyên. Hiện nay người ở đây khi nhắc đến khoai lang, người ta chỉ biết khoai lang Lệ Cần trên Pleiku, ít ai biết khoai lang Đồng Phó đã từng một thời cung cấp lương thực cho nghĩa binh Tây Sơn.

Thời Tây Sơn khởi nghĩa, theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì trước đó Nguyễn Nhạc làm biện lại Vân Đồn. Biện lại là một chức quan thu thuế thời Chúa Nguyễn. Chưa rõ Vân Đồn là tên của đồn thuế nào. Nhưng theo truyền lại thì ở phía dưới Đồng Phó chừng 6km, chỗ dốc Đất Đỏ quốc lộ 19 bây giờ, đối diện phía bên kia sông, nằm dưới chân hòn Mả Mẹ Chàng Lía là bến Cây Muồng. Vị trí nầy cách đập dâng Văn Phong mới vừa xây dựng chỉ chừng vài trăm mét về phía thượng lưu. Vùng nầy trước đây đã gọi là xóm Bình Đồn, thuộc thôn Phú Lạc, xã Bình Thành. Bến Cây Muồng xưa xa có đồn thu thuế. Đồn thuế đứng bên bờ sông Côn, án ngữ đường giao thương từ thượng nguồn về hạ bạn. Sau chính quyền chúa Nguyễn cho lập thêm một đồn phụ (phó) nữa nằm ở bên nầy bờ sông, chỗ Đồng Phó hiện nay. Tên Đồng Phó có lẽ thoát thai từ tên Đồn phó. Cũng giống như vào thời Pháp thuộc, trong vùng Đồng Phó có Đồn Đoan, là nơi đóng đồn của lính Đoan (nhân viên thu thuế), nay đã gọi trại đi là Đồng Đang. Thanh điệu của giọng Bình Định lởi xởi trong ăn nói hằng ngày, đã làm biến dạng các tên gọi địa danh.

Đối diện với Đồng Phó, bên bờ Bắc sông Côn là Hà Nhung, bây giờ là thôn Hữu Giang của xã Tây Giang. Tên gọi Hà Nhung là tiếng của người Bana. Hiện nay dọc theo bờ Bắc sông Côn đổ ngược lên Vĩnh Thạnh, lên nguồn, nhiều địa danh vẫn còn mang âm hưởng tiếng nói của tộc người thiểu số nầy như Hà Riêu, Hà Nhe, Hà Nhì

Sông núi ở đây đã bồi đắp đất Hà Nhung thành vùng soi bồi khá màu mỡ. Sông Côn trên nguồn Vĩnh Thạnh xuống tới Hà Riêu (thôn Tiên Thuận, xã Tây Thuận bây giờ) thì chảy theo hướng Bắc Nam. Từ Hà Riêu đổ xuống Hà Nhung sông lải dần theo hướng Đông Nam. Đến Hữu Thuận thì gặp phải hòn Giàng nên sông ngoặt dòng qua hướng Tây - Tây Nam, chảy sang Đồng Phó. Tại đây sông gặp cửa khẩu Suối Cát. Suối Cát tiếp nhận nước cả nguồn Hang Dơi (trên đèo An Khê) và nguồn suối Cả (trên Đồng Hào), nên sức nước rất hung hãn, nó đủ sức đẩy dòng sông Côn từ đây ngoặt hướng trở lại chảy sang Đông. Nhờ vậy phù sa hằng năm đều đắp bồi cho đất soi Hà Nhung, từ soi Lau của Lộc Thượng chạy xuống tới Lộc Hạ, phía trên bến Cây Muồng.

Đất soi bồi là đất pha cát, tơi xốp… nên rất thích nghi với cây đỗ phộng. Cây đỗ phộng có mặt ở đất nước ta vào lúc nào. Về lịch sử cây trồng ở ta, trong Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn (1726 – 1784), chưa thấy sách đề cập loại cây có bông ở tầng trên nhưng lại cho trái ở tầng dưới mặt đất nầy.

Nhưng trong cuốn A Voyage to Madagascar and the East Indies (Hành trình đến Madagascar và Đông Ấn) ấn hành năm 1792 ở London, sách mô tả đầy đủ sinh hoạt xứ Đàng Trong, có việc các thương nhân Tây dương buôn bán ở đây, và họ diện kiến cả chúa Nguyễn Phúc Khoát. Như vậy có lẽ cây trồng cho chất dầu nầy đã được du nhập vào xứ Đàng Trong từ thời chúa Nguyễn, đúng thế hệ của Lê Quý Đôn hoặc đã trước đấy, do các thương nhân người Tây dương trực tiếp đem đến từ châu Mỹ. Đó là lý do tại sao ở đây từ lâu đã gọi nó là Đỗ phộng (sau nầy lại quen gọi là đậu phụng), trong khi đó ở Đàng Ngoài lại gọi nó là cây Lạc. Lạc đọc theo âm Hán ngữ, nghĩa là cây Lạc du nhập vào Trung Hoa, rồi từ ngõ ấy mà sang miền Bắc ta, có thể vào sau thời Lê Quý Đôn chép Vân Đài Loại Ngữ.

Bờ Bắc sông Côn, từ Hà Nhung đổ ngược lên nguồn, những địa danh mang âm hưởng tiếng Bana. Còn bờ Nam sông Côn, lân cận quanh Đồng Phó thì có nhiều địa danh lại mang âm hưởng tiếng của người Chăm, như hiện nay còn tên gọi Cầu Cà Ná, Cầu Ba La… ở đây. Bên cầu Ba La ở Chợ Sạn, thôn Tả Giang, xã Tây Giang bây giờ, quãng năm 1996, khi san ũi để xây dựng Nhà Máy Đường, nhiều dấu tích lộ ra ở đây trước là nơi sinh sống của một làng Chăm. Năm 2003 nước lũ xói lở bờ soi Đồng Phó cũng xuất lộ di chỉ, đền đài Champa. 

Thời mở đất lên nguồn, người Việt đã mang cây đậu đến đất soi Hà Nhung, Đồng Phó. Đất nơi đây quần tụ cư dân, tiếp nhận trái đậu, củ khoai cùng tâm tình của họ… để sau đó cung cấp lương thảo cho đồn lương nghĩa quân Tây Sơn ở hòn Lãnh Lương gần đó, để làm nên câu ca riêng biệt của vùng đất Tây Khê thảo thụ lưu kỳ tích:

Củ lang Đồng Phó
Đỗ phộng Hà Nhung
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi…


Câu ca “Củ lang Đồng Phó, đỗ phộng Hà Nhung”… của đất Tây Sơn, đến bây giờ không thể tìm ra người viết nên nó, nhưng nơi đầu tiên nó xuất hiện, có thể xác định được là địa phương có suối Từ Bi. Cái mô típ (motif) “ngó xuống… ngó lên… chim kêu”… là những yếu tố định hình cho nơi xuất phát câu ca.

Từ Đồng Phó - Hà Nhung ngược lên nguồn sông Côn khoảng bốn, năm cây số, phía bờ Bắc bên Tiên An, Tiên Hòa có con suối nhỏ dẫy đầy cây Từ Bi, người địa phương thôn Tiên Thuận xưa đã đặt tên cho suối là suối Từ Bi. Việc đặt tên cho sông núi, xóm làng… luôn thể hiện tâm tình của cư dân nơi họ sinh sống. Thôn Tiên Thuận của huyện Bình Khê - Tây Sơn xưa có 6 xóm. Tên của mỗi xóm bắt đầu bằng chữ Tiên, như Tiên An, Tiên Hòa, Tiên Thái... Các tiếng phía sau của tên xóm, đem chúng ghép lại với nhau thành ra câu : An - Hòa - Thái - Bình - Thạnh - Trị.

Rõ vậy thì cư dân Tiên Thuận luôn mong mỏi có được một cuộc sống an lành. Suối Từ Bi, suối Co Co… ở đây, những con suối nhỏ nhưng ngọt ngào đã giúp đoàn người xưa mở đất lên nguồn bớt mặn mồ hôi. Từ suối Từ Bi, nhìn về Đồng Phó - Hà Nhung, người hữu tình ở đây đã là chứng nhân cho cuộc đổ vỡ của một mối tình từng đã chung một gùi bòn mót cái ăn :

Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi lăn đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhơn còn bỏ huống chi cái gùi …

Người thì bòn từng củ khoai lang, kẻ thì mót từng hạt đỗ, cả hai cùng đựng chung trong một gùi, bộc bạch tâm tình của những người nghèo khó chung đũa, chung chén, chung mâm cơm. Nhưng vì sao mà duyên nợ phải sùi sụt.

Trong Nước Non Bình Định cụ Quách Tấn có dẫn giải, câu ca nầy nói lên hình ảnh mối bất hòa của Đại tướng Võ văn Dũng nhà Tây Sơn với tộc thiểu số quanh vùng. Tương truyền sau khi bị bắt cùng vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân ở Nghệ An, Võ Văn Dũng trốn thoát được về quê hương, đem hai con của Nguyễn Nhạc là Văn Đức, Văn Lương và cháu là Văn Đẩu lẩn tránh trên vùng núi Đồng Phó, Vĩnh Thạnh, tại các làng người thiểu số trước từng hợp tác với nhà Tây Sơn. Quan hệ giữa họ với Võ Công sau không còn gắn bó nữa. Năm Minh Mạng thứ 12 (năm 1831), chú cháu Văn Đức bị chỉ điểm, bị bắt đem về Phú Xuân hành quyết. Còn trơ trọi một mình, Võ Công lang thang như mây ngàn, rày đây mai đó khắp vùng thượng nguồn sông Côn…

Có lẽ từ câu chuyện lịch sử bất hòa ở trên, từ bước chân hạc nội mây ngàn của Võ Văn Dũng mà câu ca có khi còn được đọc là “chàng đi” chứ không phải “lăn đi”:

Củ lang Đồng Phó
Đỗ phộng Hà Nhung
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi, chàng đi

Câu ca nếu viết đến đây cũng đã đủ nghĩa. Nhưng từ suối Từ Bi, đã có tiếng chim thốt lên. Không phải nơi bình yên chim hót. Mà là tiếng chim kêu đứt ruột trước tình đời : “nghĩa nhân kia người ta còn dứt bỏ được thì sá chi cái gùi lăn nghiêng lăn ngửa”. Chỉ cần thêm tiếng kêu ở suối Từ Bi mà thấy nũng người ra trước duyên phận bẽ bàng của cái gùi, thấy gia tăng độ đớn đau, độ ngậm ngùi khi thế nhân nhẩm lại câu ca :

Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhân còn bỏ huống chi cái gùi.

Suối Từ Bi, Hà Nhung, Đồng Phó, những địa danh đã đi vào câu ca. Câu ca ngậm ngùi nhân nghĩa đã lan truyền khỏi nơi xuất phát lan truyền vào tận Hòn Vung, Suối Mít ở Phú Yên. Suối Từ Bi, suối mang chữ của nhà Phật. Mong sao suối mang dòng chảy đầy ắp tình thương đến với con người, để con người không quên nghĩa quên nhân, đừng để cho thế nhân phải gặp cảnh sụt sùi…
Trường Nghị


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét