Thanh Minh là
bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Đỗ Mục, một thi gia thời vãn Đường. Ông cùng với
người cùng thời là Lý Thương Ẩn được đời sau xưng tụng là Tiểu Lý - Đỗ. Gọi để phân biệt với Lý - Đỗ, thi tiên và thi thánh thời thịnh Đường Lý Bạch và Đỗ Phủ.
Qua bài phú Cung A Phòng (A Phòng Cung
Phú) của ông, người đọc dễ nhận thấy ngòi bút ông vạch rõ thói hoang dâm,
phung phí hưởng lạc của giới cầm quyền thời bấy giờ. Đọc qua bài thơ Thuyền Đậu
Bến Tần Hoài (Bạc Tần Hoài) cũng dễ
nhận ra trong ông nỗi ưu thời mẫn thế, lòng ray rức trước cảnh người đời hát xướng
ăn chơi, lơ mơ trước mối hờn nước mất (thương
nữ bất tri vong quốc hận / cách giang do xướng Hậu đình hoa). Nhưng với Thanh Minh, có thể có nhiều người đã
chưa thấy rõ nỗi đau đứt ruột của ông trước tình đời.
Giai
thoại văn chương Việt Nam còn ghi truyền chuyện các cụ nhà ta trước đây đã ngắt
câu, biến bài thơ Thanh Minh của ông
thành một bài ngũ ngôn tứ tuyệt.
Nguyên
văn bài Thanh Minh của Đỗ Mục :
Thanh
minh thời tiết vũ phân phân
Lộ
thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá
vấn tửu gia hà xứ hữu
Mục
đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn.
Tiết
thanh minh trời mưa rơi lất phất
Người
còn đi trên đường buồn muốn đứt ruột
Ướm
hỏi thử nơi nào có quán rượu
Trẻ
chăn trâu chỉ về phía xa xóm Hạnh Hoa
Các
cụ cho rằng bài thơ trên rườm rà, thừa chữ. Thừa ít nhất 2 chữ mỗi câu. Các cụ lý
luận rằng : “Thời tiết vũ phân phân” đã
đủ diễn tả cảnh mưa bay, không nhất thiết phải của tiết Thanh Minh. “Hành
nhân dục đoạn hồn” cũng đã đủ
nghĩa, cần chi có 2 chữ Lộ Thượng, đi
trên đường chớ không lẽ đi dưới nước. “Tửu gia hà xứ hữu” vốn đã là câu hỏi, thêm Tá
vấn là thừa ! “Dao chỉ Hạnh Hoa thôn”, ai chỉ cũng được, lẽ gì phải nói rõ Mục đồng, đứa trẻ chăn trâu kia mới chỉ
cho cái quán rượu… Thế là các cụ ra tay ngắt phứt những chữ mà các cụ cho là thừa
kia để thành một bài mới :
Thời
tiết vũ phân phân
Hành
nhân dục đoạn hồn
Tửu
gia hà xứ hữu
Dao
chỉ Hạnh Hoa thôn.
Trời mưa bay lất phất
Người đi lạnh mất hồn
Hỏi nơi nào bán rượu
Được chỉ Hạnh Hoa thôn
Xem
ra cái bài mới nầy không phải là không có nghĩa, đọc thấy cũng lý thú. Nhưng
Giai thoại ghi lại chuyện vui chỉ để mà vui, gượng gán bài thơ chỉ để minh chứng
cho tinh thần không nên quá lệ thuộc cổ nhân của các cụ. Thật ra với tiêu đề
bài thơ là Thanh Minh, Đỗ Mục đã trải
nỗi lòng lúc tiết Thanh Minh, lấy bối cảnh ngày tiết Thanh Minh mà xét thì những
gì mà các cụ cho là thừa kia chẳng thừa một chút nào.
Trong
tâm thức của người Hoa cũng như người Việt xưa, tiết Thanh Minh được xem là
ngày Tết của cõi Âm, cũng là ngày hội du xuân của nam thanh nữ tú sau rét mướt
mùa Đông, sau tháng ngày sang Xuân mà tiết trời vẫn còn âm u, ướt át (Vũ Thủy) :
Thanh Minh trong tiết tháng
ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp
thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi
xuân …
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Đến
tiết Thanh Minh - tiết khí trong sáng trời quang mây tạnh, lúc nầy cỏ non đã xanh dợn chân trời, là lúc mà cháu con phải lo tu tảo, thắp nén
nhang cho mộ phần Tiên tổ. Thế ấy thì trong Thanh
Minh của Đỗ Mục, đã tiết Thanh Minh rồi mà mưa vẫn còn lất phất bay, người
vẫn còn đang ở trên đường (Lộ thượng),
còn xa nhà, hỏi sao người chẳng vương phải nỗi buồn muốn đứt ruột. Thiếu 2 chữ Thanh Minh ở câu đầu (câu khai), thiếu 2
chữ Lộ thượng ở câu 2 (câu thừa), là không
thấy sắc nét nỗi đau của khách hữu tình không có mặt ở nhà trong ngày Tết cõi
Âm. Nỗi đau mà Nguyễn Trãi đã nói rõ hơn trong bài thất ngôn bát cú Thanh Minh của ông :
Nhất tòng luân lạc tha hương
khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ
qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu
ma …
Từ
khi lưu lạc quê người đến nay,
Bấm
đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã mấy lần rồi.
Xa
nhà nghìn dặm không săn sóc phần mộ tổ tiên được,
Mười
năm qua bà con thân thích đã tiêu tán hết …
Hiện
nay dù ở xa cố quốc, một số người Hoa ở Việt Nam vẫn còn giữ được phong tục tu
tảo mộ phần Tiên tổ trong ngày tiết Thanh Minh. Nhưng một số khác như người Hải
Nam lại lấy ngày tiết Đông Chí làm ngày tu tảo, giống như người Việt, bộ tộc Lạc
Việt của tộc Bách Việt phía Nam Trường Giang từ lâu nay vẫn còn giữ được cách
thế sống tự nghìn xưa. Tháng chạp là tháng sau tiết Đông Chí, người Việt thường
chạp mả Ông bà để Ông bà thảnh thơi về
ăn Tết Nguyên Đán với cháu con. Đến tháng ba, không những đi thăm phần mộ Tổ
tiên sau tháng ngày tiết trời ướt át, hỗn độn cỏ lau, người Việt còn mang cuốc rựa
sang sửa những mả mồ lâu nay không có người nhang khói. Mỗi xóm của làng quê
xưa Việt Nam trước đây đều có Miếu Thanh Minh. Đến ngày tiết Thanh Minh cả xóm
cùng nhau ra công tu tảo những mộ phần vô chủ trong xóm, lấy ngày nầy làm ngày
cúng ở Miếu Thanh Minh, Tết của những người Âm thế. Hội đạp thanh - dẫm cỏ xanh của người Việt không mang tính chất nam
thanh nữ tú du xuân mà cả làng ra sức với nhau thể hiện ý thức cộng đồng, tình
làng nghĩa xóm.
Mang
ý nghĩa ngày Thanh Minh của tộc Bách Việt nầy mà đọc lại Thanh Minh của Đỗ Mục thì sẽ đứt đoạn từng khúc ruột, nói tới chi
là thấy muốn đứt ruột !
Thử
hình dung cảnh người còn xa nhà của Đỗ Mục đứng cạnh bãi tha ma bên vệ đường,
ngày Thanh Minh mà những mả mồ ở đây đều hoang lạnh, đầy cỏ lau… xem ra chẳng
khác nào cảnh Thúy Kiều du xuân gặp mộ Đạm Tiên :
Sè sè nấm đất bên đàng
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa
xanh
Rằng sao trong tiết Thanh
Minh
Mà đây hương khói vắng tanh
thế mà …
Người
còn ở trên đường của Đỗ Mục đã gặp Thúy Kiều của Nguyễn Du ở tấm lòng đối với
tha nhân :
Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng
thăm
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm
châu sa …
Mối
thương tâm của Người còn ở trên đường không thể hiện ra ngoài đầm đầm châu sa như Thúy Kiều, mà ruột
quặn từng cơn trước cảnh ngổn ngang mả mồ hoang lạnh, đây đó bò nhởn nhơ gặm cỏ
cùng đôi đứa mục đồng. Chung quanh không một bóng ai, nơi đó đã không có người
ra công thể hiện tình làng nghĩa xóm với những mộ phần vô chủ. Bỡi thế mới có
chuyện mục đồng chỉ cho quán rượu chớ nơi đó có ai đâu mà chỉ. Ngữ cảnh từ 2 chữ
Mục đồng ở câu 4 (câu kết - câu hợp) mới
nói lên đủ cái hoang lạnh làm đứt đoạn lòng người trong Thanh Minh của Đỗ Mục. Mà ngữ cảnh đó có được là nhờ ở 2 chữ Tá vấn của câu 3 (câu chuyển). Chung
quanh hoang tàn, lạnh lẽo, có phải người lữ khách muốn tìm nơi có rượu để sưởi lòng
(!?) Hỏi nơi nào có quán rượu chỉ là mượn cớ hỏi (Tá vấn) để xem quanh đây có xóm có làng, người trong xóm trong làng
có còn tình nghĩa với người nằm xuống không ai nhang khói (!?) Cay đắng một điều,
thôn xóm dưới xa kia lại mang tên Hạnh Hoa, một cái tên gợi lên biết bao là thơ
mộng.
Đường
thi tứ tuyệt chỉ với 4 câu vẫn phải diễn ý đủ cấu trúc của một bài thơ xưa :
khai - thừa - chuyển - hợp. Cái thần câu chuyển của Đỗ Mục không những đã làm
rõ hơn không gian ngày Thanh Minh ở câu thừa mà còn làm cho câu kết hiển hiện nỗi
cay đắng tình đời. Lo cho người Âm thế, ý thức chúng sinh sẽ làm cho người Dương
thế biết chia sẻ, đùm bọc nhau hơn. Khi con người sống chỉ biết cho riêng mình
không còn mang tính cộng đồng làng xóm có phải chăng tình người đã phân hóa
(!?). Có phải chăng đây là nỗi đau đứt ruột của Tiểu Đỗ trong bài thất ngôn tứ
tuyệt Thanh Minh (!?)
Tiết Thanh Minh
Giáp Ngọ
Phan Trường Nghị
Về bài thơ Thanh Minh của Đỗ Mục các cụ có ngắt đi hai chữ đầu mổi câu thì cũng chả ảnh hưởng ý nghĩa bài thơ.Cỏn bài ngũ ngôn tác giả vô danh ra đời từ thời Bắc Tống :
Trả lờiXóaCửu hạn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Động phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì
tạm dich:
Tứ sướng:
Hạn lớn được mưa nhuần
Xứ người gặp bạn cũ
Đêm động phòng hoa chúc
Lúc bảng vàng treo tên
Bài thơ dân gian này thường được dạy trong các trường ở thôn quê Trung Hoa ngày xưa. Hàm ý của nó rất rõ ràng: mỗi câu nêu lên một hoàn cảnh tạo ra niềm vui cho một hạng người: nhà nông (câu 1), người lữ thứ (câu 2), vợ chồng mới cưới (câu 3) và sĩ tử (câu 4).
Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa – người quận Bình Thủy-Cần Thơ –thì chưa cho là hay: nếu chỉ diễn tả có bấy nhiêu, thì thiết nghĩ cũng chưa lấy gì làm "sướng" cho lắm. Muốn thực "sướng thì phải thêm chữ như sau:
Tứ cực sướng:
THẬP NIÊN cửu hạn phùng cam vũ
THIÊN LÝ tha hương ngộ cố tri
HÒA THƯỢNG động phòng hoa chúc dạ (đúng là "sướng" )
HỦ NHO kim bảng quải danh thì!
Tạm dịch:
Mười năm hạn hán gặp mưa lành
Ngàn dặm đất khách gặp người quen
Hòa thượng đêm động phòng
Nho sinh dốt mà thi đậu
Như vậy vẫn chưa hết! Cũng bài thơ đó, muốn biến ra thành "sự khổ" thì chỉ cần thêm chữ như sau:
Và "Tứ cực khổ":
DIÊM ĐIỀN cửu hạn phùng cam vũ
ĐÀO TRÁI tha hương ngộ cố tri
YẾM HOẠN động phòng hoa chúc dạ
CỬU NHÂN kim bảng quải danh thì
Tạm dịch:
Ruộng muối nắng lâu gặp mưa rào
Trốn nợ xa quê gặp người quen
Thái giám bị động phòng hoa chúc
Kẻ thù đỗ đạt, bảng đề tên.
"Yểm hoạn động phòng hoa chúc dạ" cũng khoái ra phết, chẳng sao cả, nếu biết "Thần phùng chỉ phát."
XóaThần phùng chỉ phát nghĩa là sao anh Bửu Châu?
XóaHỏi thiệt hay hỏi chơi zậy Nặc danh 18:14?
XóaCái đấy là ở chuyện "Quyển sách quý" của Trạng Quỳnh:
"Trong số quan lại ở phủ Chúa có rất nhiều hoạn quan tham lam, nịnh hót. Chúa tin dùng chúng vì chúng giỏi gièm pha, tâng bốc. Có tên hoạn quan cấp trên ghét Quỳnh lắm, hễ có dịp là hắn rình mò Quỳnh rồi tâu xấu với chúa, xúi chúa làm tội Quỳnh. Quỳnh biết điều đó nhưng làm ngơ, xem hắn như cỏ rác.
Một hôm, Quỳnh cắp nách một quyển sách rất đẹp, đi lơn tơn qua các hành lang, vẻ mặt nghiêm trọng rồi lại giấu giấu, giếm giếm.… Tên hoạn quan kia đang rình mò Quỳnh, thấy vậy sinh nghi, bèn chạy theo níu áo đòi mượn sách để coi. Hai bên giằng co một hồi thì tên quan giựt được. Hắn lật từng trang, chỉ thấy toàn giấy trắng, đến trang cuối cùng có chữ, nhưng hắn cố căng mắt ra đọc cũng chả hiểu gì cả. Túng quá, hắn bảo Quỳnh đọc xem là gì, Quỳnh lại ra vẻ quan trọng bảo:
- Ðọc ở đây thật không tiện, nếu ông muốn nghe, xin mời đến nhà cho kín đáo. Về nhà, Quỳnh liền đọc cho tên quan kia nghe những đIều ghi trong trang sách ấy, đó là "Chúa vị thần viết, vi cốt tứ địch. Thị thần quị nhi tấu viết, thần phùng chỉ phát"
Giải thích vài chữ, còn lại thì tự tìm hiểu, vì giải thích hết "ở đây thật không tiện, nếu ông muốn nghe, xin mời đến nhà cho kín đáo":
-Vi: làm; cốt: xương; ....
-Thần: (bề) tôi; Phùng: may (áo, quần); ...
.....
Anh Bửu Châu nói toẹt ra giùm có gì mà phải úp úp mở mở mời đến nhà cho kín đáo. Biết nhà anh ở đâu mà đến bây giờ? Thiệt khổ.
XóaThể theo yêu cầu của "Nặc Danh", tui xin chép tiếp chuyện "Quyển sách quý" của Trạng Quỳnh:
Xóa"...thần phùng chỉ phát." Xong, Quỳnh lại diễn Nôm cho tên quan kia nghe, nghĩa câu đó là: "Chúa hỏi thần rằng làm xương cho sáo. Thị thần quì mà tâu rằng tôi may ngón tóc." Nghe xong, quan hoạn cứ ngớ người ra chẳng hiểu mô tê gì cả, lại gãi đầu gãi tai nhờ Quỳnh giải thích. Quỳnh làm bộ ngó trước ngó sau rồi nói khẽ:
- Ông nghe thì không sao, nhưng nếu Chúa mà biết thì cầm chắc cái chết!
Tên hoạn quan thề rối rít:
- Không sao, chỉ có mình tôi biết thôi mà. Nếu có điều hệ trọng, ai lại đi tâu với chúa…
Quỳnh mỉm cười, giải thích:
- Nghĩa của nó là như thế này: Chúa hỏi thần rằng làm sao cho sướng? Thị thần quì mà tâu rằng tôi móc ngón tay!
Tên kia nghe xong, mặt đỏ tía tai, phùng mang trợn má lên hét:
- Thế ra lâu nay nhà ngươi tàng trữ sách chế giễu Chúa, lại còn thoá mạ những bầy tôi trung thành của Chúa. Hay lắm, rồi ngươi sẽ biết tay ta!
Tâm thức của người Hoa thì sao không biết, chớ trong tâm thức người Việt (tuy cũng có chút ít huyết thống người Hoa Triều Châu) như tui, thì: tiết Thanh Minh chẳng có chút gì là ngày hội du xuân của nam thanh nữ tú sau rét mướt mùa Đông, sau tháng ngày sang Xuân mà tiết trời vẫn còn âm u, ướt át cả. Ngoại trừ phải gắng gượng mà cảm mấy câu trong Truyên Kiều: Thanh Minh trong tiết tháng ba/ Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh/ Gần xa nô nức yến anh/ Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân …, cho nó có vẻ.... Bởi vì:
Trả lờiXóa- Người Hoa Triều Châu tu tảo vào ngày Đông Chí, chỉ có lần tu tảo đầu tiên, và duy nhứt, cho mộ phần người quá cố là vào ngày Thanh Minh thôi.
- Khí hậu và thời tiết ở Việt nam, đặc biệt là Trung và Nam Trung phần trở vô, thuộc nhiệt đới, tiết Thanh minh đã là sau Xuân phân rồi, nóng toát mồ hôi luôn. Chẳng có "du xuân" cũng chẳng "đạp thanh", "đạp thiếc" chi cả!
Tiết thanh Minh trong tâm thức chúng tôi, đúng, chỉ là:
"Tháng chạp là tháng sau tiết Đông Chí, người Việt thường chạp mả Ông bà để Ông bà thảnh thơi về ăn Tết Nguyên Đán với cháu con. Đến tháng ba, không ai đi thăm phần mộ Tổ tiên cả. Mỗi xóm của làng quê xưa Việt Nam trước đây đều có Miếu Thanh Minh, và hiện nay đang có trào lưu tái phục dựng, nếu bị hư nát. Đến ngày tiết Thanh Minh cả xóm cùng nhau ra công tu tảo những mộ phần vô chủ (mả lạng) trong xóm, lấy ngày nầy làm ngày cúng ở Miếu Thanh Minh, hay không có miếu thì cũng kêu là "cúng chòm", "cúng xóm",... Ngày nầy cũng có thể coi như ngày "Tết" cho những người Âm thế, lạc lõng, bơ vơ không thân bằng quyến thuộc. Rồi sau đó 3, 4 tháng nữa, từ Tết Trung Nguyên của người Hán và Lễ Vu Lan của Phật giáo, người Việt lại biến thành ngày "Xá tội vong nhân" cho "cô hồn", "các đẳng" nơi âm phủ. Và đấy là một nét đặc trưng của mang đậm tính nhân bản của người Việt và văn hóa Việt vậy.
Nhân Phan Trường Nghị bàn về "Thanh Minh" trong mấy "Thi phẩm" và "Thi gia" thời Trung đại, tui xin ghi lại vài ý "phi thi ca" theo góc nhìn và kiểu nhận riêng của mình để góp cùng mọi người.