“Anh
nhảy tàu về quê ăn Tết
Mẹ
bây giờ đã lớp người xưa
Nên
anh ý tứ kiêng mùng Một
Chỉ
đến thăm em trước giao thừa
Bên
chiếc lọ hoa nơi bàn học
Anh
sẽ ê a giọng vỡ lòng
Chiều
ba mươi ra vườn tuổi nhỏ
Anh
hái cho em một nụ hồng
Trúc
lả ngọn chiều phong pháo đỏ
Diêm
xòe lửa ấm giữa đêm sâu
Tống
biệt ngày cuối đông lận đận
Thắp
môi mình đốt cháy những lao đao
Xin
em nhắn dùm con chó nhỏ
Ông
ấy phương xa sắp trở về
Cún
chớ lăng xăng nơi đầu ngõ
Coi
chừng pháo nổ giật mình nghe!”
Thơ
Trần Viết Dũng ( 1982)
Tôi
chỉ là một hoạ sĩ biết “viết” và biết “đọc” thơ đôi chút (tuy có thời gian
không dài ngồi ở giảng đường Văn khoa SG), nhưng không hiểu sao có sáng tác nào
mới các ông bạn nhà thơ lại hay đưa xem có “cảm” hay có chỗ nào “sượng” không?”
Có lẽ tạng của tôi ít úp mở, cả nể trong việc giữ gìn cái đẹp trong Văn học,
hay họ muốn nhờ một nhãn quan người khác để phát hiện những gì mới chăng? Nhưng
dù gì, tôi thầm nghĩ, mình chỉ biết “vịn” những câu thơ hay để bình, để minh hoạ
mà thôi!
Nhận được bài thơ anh Viết Dũng gửi, tôi đọc một mạch như khi mỗi lần về quê ngoại, được bà chặt trái dừa xiêm nhỏ, tôi ngửa đầu uống cạn một hơi! Mát rượi…
Bài
thơ có tứ không mới, chỉ lấy một chi tiết mà ai cũng trải qua trong thời trai
trẻ: đến thăm nhà người yêu. Có điều chàng trai này xa quê đã lâu, và về thăm
nàng trong không gian cụ thể: đêm trừ tịch, và thời gian là trước giao thừa.
Đọc
những câu thơ tiết tấu chậm ta thấy thật tội cho chàng trai đang ngần ngại, ý tứ:
“…
kiêng mùng Một
Chỉ đến thăm em trước giao
thừa”
chỉ
vì sợ mẹ già ”giờ đã lớp người xưa” dù chắc biết tỏng là chàng ta (cứ cho là
sinh viên), cũng từng trải, ngông nghênh lắm, cũng đã biết “ nhảy tàu về quê ăn
Tết” rồi mà!
Chỉ
vài chữ mà tác giả đã cho ta biết thời điểm bài thơ. Có lẽ lâu lắm mới nghe lại
từ “nhảy tàu” vì bây giờ chỉ nghe “đi tàu” mà thôi. “Nhảy” là vì những năm 70 -
80 phương tiện di chuyển chủ yếu là xe lửa cũ kỹ! Xe đò ít, máy bay là điều
không tưởng! Sinh viên, người làm ăn nghèo mỗi lần về nhà cứ chờ tàu dừng ở ga
nào là vọt lên đại sau khi dúi cho anh bảo vệ một ít tiền. Có khi bí hơn thì cứ
chờ đoạn nào vắng, tàu chạy chầm chậm thì nhảy lên, cứ vô toa rồi tính!
Trong
đầu anh thầm sắp xếp, đến lúc đến nhà nàng:
“sẽ
ê a giọng vỡ lòng”
rồi
mạnh dạn:
“…ra
vườn tuổi nhỏ
Anh hái cho em một nụ hồng”
Khổ
thơ này vẫn đi liền một mạch tuy có hơi hiền và chung chung so với toàn bài.
Không sao, tình yêu mà, muôn thuở vẫn là chuyện tán vu vơ, trao vội thơ, vô
công viên hoặc vào vườn hái trộm hoa để tặng nàng!
Đến
khổ thơ thứ ba, lại phảng phất hương vị thơ Tiền chiến, đọc thật thích, nhất
là:
‘”Trúc lả ngọn chiều phong
pháo đỏ
Diêm xòe lửa ấm giữa đêm sâu
Tống biệt ngày cuối đông lận
đận
Thắp môi mình đốt cháy những
lao đao”
Hình
ảnh đêm trừ tịch dựng ra trước mắt người đọc chỉ sau hai hình ảnh đối nhau chan
chat ”Trúc lả ngọn chiều - diêm xoè lửa ấm”. Cái lạnh ngày cuối đông trong cả
bài thơ đã bị đẩy đi. Bài thơ như bừng
sáng sau chữ xoè lửa! Trúc lả - một từ đẹp mà lâu nay ít gặp trên thi đàn (Hàn
Mặc Tử chỉ viết ”lá trúc che ngang“). Trúc lả - Đọc lên, ta như nghe nghe tiếng
lá xào xạc, thấy cái dáng vít cong buông sát đất hay thấy ở những rặng trúc trầm
mặc trước cổng nhà lá mái Trung bộ!
Đến
với thơ anh Viết Dũng, bạn sẽ quý cách anh nhả những điệp từ, từ láy thật tinh
tế như “mốc meo, vỗ về” trong “Lãng đãng giữa đời” và ở đây là ”ê a, lận đận,
lao đao, lăng xăng”. Có những từ này bài thơ anh thêm lấp lánh!
Lý
thú và đầy chất đời nhất là khổ cuối:
“Xin em nhắn dùm con chó nhỏ
Ông ấy phương xa sắp trở về
Cún chớ lăng xăng nơi đầu
ngõ
Coi chừng pháo nổ giật mình
nghe!”
Đọc
đoạn này người xem không khỏi mỉm cười như xem vở kịch có ba nhân vật, khi thấy
cả hai nhân vật chính che giấu cảm xúc của mình cùng gán ép đùn đẩy cho nhân vật
phụ - cún con (tội nghiệp - nó có biết gì đâu???)
Đại
từ ”ông” nghe thật đắt. “Ông” nghe nửa gần, nửa xa, có chút ỡm ờ, muốn mà không
dám nói. Nếu thay bằng anh, chàng … sẽ nhẹ tênh và mất đi sự thú vị thẫm đẫm
trong câu văn.
Còn
cún lăng xăng, giật mình hay cô gái ”lăng xăng”, bối rối? Cún con chỉ là nhận vật
thứ ba (cùng mạng với chàng trai - tuổi tuất), thực chất là cái cớ cho hai người
yêu đang “cút bắt“ nhau.
Nhắn
cún hay nhắn em?
Dặn
cún hay dặn em?
Tôi
hồ nghi anh Dũng phải có thời gian ở Bắc hoặc quen… cô em nào xứ Bắc, vì giọng
điệu ngoa ngữ ỡm ờ này phảng phất giọng điệu cô em Bắc Kỳ nho nhỏ.
Bài
thơ với cái kết lửng lơ lại tạo thú vị và gợi mở. Bởi tất cả chỉ là toan tính,
vì chàng trai còn trên tàu cơ mà?
Tôi
nhớ lõm bõm câu nhà văn Pautopxki (tác giả Bông hồng vàng) viết: Hãy nói những
điều bình thường một cách ấn tượng nhất! Bài thơ này nằm trong tạng ấy, nhỏ đẹp
đằm thấm và người nghe sẽ rất khó quên.
Chắc
chắn thế!
Anh
Viết Dũng, tôi không thích gọi anh là nhà thơ, vì anh không sống bằng thơ và
trong tay không có “sổ đỏ” (tên gọi nôm na của những người là Hội viên hội VHNT
tỉnh hay huyện gì đó). Bởi sau đúng 17 năm, kể từ khi tập thơ đầu tay “Lãng
đãng giữa đời” (1993) ra đời, bạn bè và bạn đọc chờ đợi mãi, chẳng thấy tăm hơi
thơ anh đâu nữa, để cho bao người phải than vãn, sốt ruột, tiếc…
Anh
vẫn làm thơ đó chứ! Làm ít, tuỳ hứng, nhưng hễ thơ anh ra là “ra tấm, ra món”,
đúng chất Trần Viết Dũng!
Lần
về Quy Nhơn hè rồi, tôi có nghe nhà thơ Hạt Cát (Thanh Xuân) kể chuyện lý do vì
căn bệnh cố hữu của giới văn nghệ Tỉnh nhà (ai cũng biết) nên dù xứng đáng hơn ối
các vị kia, anh vẫn đứng ở ngoài ???
Tôi
thích gọi anh là người Thơ hơn, và thầm nghĩ may mắn khi anh chưa bước vào Hội?
Vì, điều đó có nghĩa là ta còn có dịp đọc thơ anh với mạch chảy thuần khiết như
thuở ban đầu, thuở của “Vua và em”, “thơ gửi chân mây”, “ngồi lại với bến
sông”… Và tuổi hoa tím còn còn có thêm người “ bày vẽ” mình…
Ơi
các chàng trai phơi phới tuổi yêu!
Mai
khoe sắc thắm vàng trước ngõ, hãy đọc bài thơ này rồi mạnh dạn đến nhà nàng với
nụ hồng trên tay; vì nhớ rằng: đứng về
phía “ta” đâu chỉ có trúc lả, phong pháo đỏ, que diêm ấm… hay chú chó nhỏ “lăng
xăng”; mà còn có “đồng minh vô cùng quan
trọng” là trái tim cô gái trẻ đang rộn ràng đập trong gió Xuân hây hẩy trở về…
Sàigòn
2009, mùa chim én bay
Lê Sa Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét