PHẠM VĂN NGHỊ, NGƯỜI THẦY CỦA NHỮNG DANH NHÂN
VÀ ANH HÙNG DÂN TỘC
Lịch sử giáo dục
của dân tộc ta từng ghi lại công lao
biết bao vị thầy xuất sắc, hết lòng vì thiên chức cao quý, đã đào tạo được vô
số nhân tài cho đất nuớc. Chúng ta có thể kể những vị danh sư tiêu biểu như :
Chu Văn An, Võ Công Đạo, Phạm Văn Nghị, Trần Đình Phong, Võ Trường Toản, v.v … Xuất
phát từ truyền thống “tôn sư, trọng đạo” của dân tộc ta, mối quan hệ giữa thầy
và trò luôn luôn được nuôi dưỡng trong môi trường tình cảm và đạo đức. Người Thầy
có địa vị được tôn kính xếp vào ngay sau Vua và trước cả Cha theo thứ tự Quân,
Sư, Phụ trong Khổng giáo
Tuy nhiên, mối
quan hệ thầy trò chỉ có thể diễn ra thật tốt đẹp khi cả thầy lẫn trò đều phải đạt
được cái Chính Danh trải qua quá trình tự rèn luyện bản thân.Chính danh trong
Khổng giáo gói trọn trong 8 chữ : quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử (nghĩa
là vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con). Thuyết
chính danh có thể nói gọn cho dễ hiểu là “thầy cho ra thầy, trò cho ra trò”.
Người thầy trong
xã hội cũ vừa dạy học trò làm người, vừa truyền đạt kiến thức cho học trò. Thầy
không chỉ dạy học trò bằng tư tưởng, kinh truyện mà còn bằng chính con người
của mình, như một tấm gương để học trò noi theo.Từ đó, thầy là thần tượng của
học trò, những lời thầy dạy là chân lý. Sự tương tri, tương đắc giữa thầy và
trò nhiều khi còn thân thiết như tri kỷ, hơn cả tình cha con. Do đó, tình cảm
của học trò ngày xưa đối với thầy vừa có kính, vừa có thân. Sở dĩ tạo được mối
quan hệ đặc biệt như thế, chính người thầy đã chủ động gây cho học trò cảm thấy
khoảng cách thầy trò không còn nữa, hay giảm thiểu đến mức hòa đồng.
Đối với Phạm Văn
Nghị, hoàn cảnh lịch sử đã quần tụ thầy trò ông về chung một chiến tuyến, chung
một lý tưởng, nên môn sinh xem thầy vừa như một thần tượng, vừa như một người
cha thân thương, và vừa như một lãnh tụ lý tưởng. Lần theo chứng tích của sử liệu
và tác phẩm còn lưu lại của Phạm Văn Nghị, chúng ta thử tìm hiểu vì đâu ông là
một người thầy của rất nhiều danh nhân, vừa
thành công xuất sắc trên đường cử nghiệp, vừa là những anh hùng dân tộc
trong những ngày đầu Pháp xâm chiếm Việt Nam và từ đó thử đánh giá đúng
những gì ông đã đóng góp vào sự nghiệp đào tạo nhân tài cho đất nước.
TIỂU SỬ PHẠM VĂN NGHỊ
Phạm Văn Nghị
hiệu là Nghĩa Trai, sinh năm Ất Sửu (1805) tại làng Tam Ðăng, tổng An Trung,
huyện Ðại An, tỉnh Nam Ðịnh (nay là Thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên,
tỉnh Nam Ðịnh). Năm lên 8, ông học vỡ lòng bên họ ngoại, 11 tuổi theo học thân
phụ ông, lúc ấy dạy học ở Ninh Bình. Khi thân phụ đi binh dịch, ông theo học
một số thầy ở Ninh Bình.Từ năm 16 tuổi đã phải đi dạy học để tự túc và để có
điều kiện tự học thêm. Cứ thế, vừa tiếp tục dạy học, vừa tự rèn luyện cho đến
năm 22 tuổi thì đỗ tú tài, năm 33 tuổi đỗ cử nhân, năm 34 tuổi trúng nhị giáp tiến
sĩ khoa Mậu Tuất (1838) (1)
Kể từ năm này ông
bắt đầu bước vào đường hoạn lộ. Ðầu tiên ông được làm tu soạn viện hàn lâm, có
tham gia soạn bộ Khâm định tập vận trích yếu. Năm sau, ông được bổ làm tri phủ
Lý Nhân. Nhưng đường làm quan của ông gặp rất nhiều gian truân, bị giáng cấp
nhiều lần. Năm 1841, do Bùi Công Quỹ tiến cử, ông được vua Thiệu Trị vời về
kinh cho làm biên tu quốc tử quán. Ðến năm 1846, lấy cớ bị bệnh, ông cáo quan
về quê dưỡng bệnh và dạy học suốt trong 12 năm.
Sau nhiều lần
thoái thác việc triều đình triệu hồi ra giúp nước, ông ra nhận chức đốc học Nam
Ðịnh năm 1857. Nhưng năm sau, Pháp đánh chiếm Sơn Trà, Ðà Nẵng, Ông dâng sớ
trình bày phương cách chống giặc, được triều đình chấp thuận, rồi cùng với học
trò là Ðặng Ngọc Cầu và bạn là Phan Văn Xưởng phối hợp cùng 5 cử nhân, 8 tú tài
và hơn một chục học trò khác chiêu tập một đoàn nghĩa dũng gồm 365 người tiến
vào Ðà nẵng để đánh giặc. Khi đoàn nghĩa dũng này vào đến Huế thì Pháp đã rút
khỏi Ðà nẵng để tăng cường quân đánh chiếm Gia định. Vua cho đoàn nghĩa dũng
trở về và cho ông trở lại chức cũ.Từ năm 1861 đến 1862 ông được cử làm hiệp lý
quân vụ, đánh dẹp bọn phỉ xâm phạm vùng Thái Bình. Trở về bị ốm, ông cáo quan
về quê dưỡng bệnh và dạy học từ 1862 đến 1867.
Mùa thu năm 1867,
ông nhận ra làm thương biện kiêm hải phòng sứ Nam Ðịnh. Năm 1871, bọn phỉ Tàu
quấy rối ở vùng Ðông bắc, ông đem binh tiễu trừ, nhưng sức yếu, ông xin cho con
cả là Phạm văn Giảng đi thay, còn ông về giữ việc phòng thủ bờ biển Nam Ðịnh.
Năm 1873 Pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất. Sau khi chiềm Hà Nội, Ninh Bình,
Pháp tiến đánh Nam Ðịnh. Ông chỉ huy dân binh đồn Ðộc Bộ chống cự quyết liệt,
nhưng đạn dược hết, viện binh không tới, buộc phải rút lui. Ông lập căn
cứ An Hòa, thắng trận tập kích của quân Pháp. Sau khi Francis Garnier bị giết ở
Cầu Giấy, Hà Nội, điều ước Philastre thành hình, Pháp rút hết khỏi Bắc
kỳ, nghĩa quân An Hoà được cho về quê cũ làm ăn. Ông bị bắt giải về kinh về tội
để thất thủ thành Nam Ðịnh, nhưng khi vào đến Ninh Bình có lệnh cho ông về Nam
Ðịnh tạm giữ chức thương biện, đi ổn định tình hình rối ren trong tỉnh do xung
đột giữa lương và giáo.
Sau 2 lần viện cớ
đủ 70 tuổi để xin về hưu, đến giữa năm 1874 ông mới được triều đình chấp thuận.
Sáu năm cuối cùng trong đời, ông về sống ẩn dật trong động Liên Hoa, thuộc Hoa
Lư, Ninh Bình. Năm 1880 ông bị bệnh mất tại quê nhà. Hiện nay ở Sĩ Lâm, là nơi
trước kia ông xin khai khẩn lập thành làng, nay còn đền thờ ông để nhớ ơn ông.
Ông để lại cho
đời một tập Phạm Nghĩa Trai tự ký và Tùng Viên văn tập (do con trai thứ
hai của ông là Cử nhân Phạm Văn Hân sưu tập được phần lớn văn thơ của
ông) Tất cả gần 600 bài vừa thơ, vừa văn.
ÐÀO TẠO NHÂN TÀI CHO ÐẤT NƯỚC
Cuộc đời hoạt
động của ông xen kẽ việc làm quan và dạy học. Những khoảng thời gian quan trọng
nhất trong cuộc đời ông là những năm dạy học tại quê nhà. Thời gian đầu được 12
năm (1846-1857). Thời gian sau được 6 năm (1862-1867). Trường ông mở tại làng
Hiếu Thiện, tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Nơi đây trở thành
trung tâm đào tạo nhân tài thuộc các tỉnh vùng duyên hải miền bắc thời đó. Học
trò từ các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Thái
Bình, Hải Dương, Kiến An, hoặc ở những nơi xa hơn như: Bắc Ninh, Thanh Hóa cũng
theo học ông kể có hàng nghìn người.
Nhưng việc dạy
học của ông không phải chỉ có những khoảng thời gian đó. Ông dạy học bất cứ nơi
nào có dịp thuận tiện. Khi còn làm sử quan tại kinh trong 5 năm đầu trên bước
đường hoạn lộ, ông vẫn dành nhiều thời giờ dạy học. Lúc làm hải phòng sứ coi
việc phòng thủ cửa biển Ba Lạt, ông vẫn kết hợp mở trường dạy học tại Hoành
Nha. Ông cũng dạy học ở Quần Anh, Thượng Ðồng.
Xét về chất
lượng, ông đã đào tạo được nhiều học trò đậu cao nhất ( 2 vị đậu tam nguyên và
1 vị đậu đình nguyên : Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San, Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn
Khuyến, và Đình nguyên Đỗ Huy Liêu) (2).
Xét về số lượng,
học trò ông trở thành danh nhân, nổi tiếng trong một giai đọạn lịch sử cũng
nhiều hơn cả. Những danh nhân nổi tiếng lúc Pháp xâm chiếm nước ta đều là học
trò ông. Ngoài 3 vị kể trên (Trần Bích San , Nguyễn Khuyến, Đỗ Huy Liêu) còn có
Hộ Bộ Thương thư Phạm Thận Duật (3), Tiến sĩ Tống Duy Tân (4), Tiến sĩ Vũ Hữu
Lợi (5), Phó bảng Lữ Xuân Uy (6), Phó bảng Đặng Ngọc Cầu (7), Thủ khoa Nguyễn
Cao (8), anh hùng chống Pháp Đinh Công Tráng. Ngoài tài học, những vị này
còn có tài kinh bang tế thế, ra làm quan giữ nhiều chức vụ quan trọng,
khi Pháp xâm chiếm nước ta. tất cả những vị này, hoặc tham gia phong trào
cần vương chống Pháp, hoặc bất hợp tác với Pháp, giữ tròn khí tiết.
Nhưng thật ra,
nếu chỉ căn cứ vào số học trò thành đạt và nổi tiếng để đánh giá một người thầy
cũng chưa chắc là đúng hoàn toàn. Trường hợp Chu Văn An, chúng ta được biết rất
ít về số học trò thành đạt của ông, ngoài Lê Quát và Phạm Sư Mạnh, vì hầu hết
các sử sách đều bị quan lại nhà Minh thiêu hủy. Hoặc như trường hợp vị
thầy được gọi là “thiên hạ chi sư” Nguyễn Đình Trụ, tương truyền có đến hơn 70
học trò đỗ đại khoa, nhưng ngày nay chúng ta không biết rõ những ai là học trò của
ông. Hoặc như đốc học Trần Đình Phong, ngoài 3 vị danh nhân là học trò (Trần
Quý Cáp, Phan Chu Trinh, và Huỳnh Thúc Kháng), còn có những vị tiến sĩ khác đều
là học trò của ông, như : Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn (là 3 trong số 5
tiến sĩ của Quảng Nam) đậu năm 1898, và Nguyễn Đình Hiến đậu phó bảng năm 1901.
Đối với những bậc thầy nổi tiếng khác, sử sách chỉ ghi nhận tình của môn sinh đối với thầy. Còn đối với Phạm Văn Nghị, sử sách còn ghi lại không những chỉ tình của học trò đối với ông, mà còn có tình của ông đối với học trò. Qua văn thơ của ông còn để lại, chúng ta thấy Phạm Văn Nghị đã đem trọn tấm lòng một người thầy san sẻ yêu thương cho tất cả học trò của ông, ngay từ lúc họ còn là những bạch diện thư sinh cho đến khi họ thành đạt trên đừờng cử nghiệp và hoạn lộ.
TẤM LÒNG NGƯỜI THẦY
Hình như đối với
ông, việc quan, việc đời toàn là những chuyện bất đắc chí, nên ông lấy chuyện
dạy học vừa để làm nguồn vui, vừa đào tạo nhân tài cho đất nước. Do đó, ông
luôn luôn dành cho học trò những tình cảm hết sức đặc biệt mà chúng ta không
thấy thể hiện ở những vị thầy học nào khác.
Ðối với học trò
nhỏ, khi chưa bước vào đường khoa danh, lúc nào ông cũng giữ một niềm từ
ái như cha con, hay hơn thế nữa. Trong số những bài thơ của ông còn để lại,
chúng ta tìm thấy một bài tế văn hết sức cảm động, ông làm để viếng một người
học trò nghèo mất sớm. Nguyên tác bằng chữ Hán, như sau:
KHỐC MÔN ÐỆ CỔ
LIÊU TRỊNH, TẾ VĂN
Sử vãng điện nhi
khốc chi viết:
Trịnh Khải !
Trịnh Khải!
Tằng tòng ngã du,
Ðạt nhi nhược
nột,
Mẫn nhi nhược
ngu.
Ngã liên nhĩ bần
Sử huấn chư ấu
Ngã liên nhĩ đơn,
Thành nhĩ hôn
cấu.
Nhĩ danh vị lập,
Vọng nhỉ huyền
huyền
Nhĩ chí hoặc tự,
Miễn nhĩ cùng kiên.
Tạc cận đoan
dương
Nhĩ phản nhi
diện.
Hà tai tự thử,
Thất nhĩ, nhân
viễn ?
Nhĩ bệnh bất văn
Nhĩ tử bất tri
Ngô đẳng lai cáo.
Thả kinh, thả
nghi.
Khởi ngã quả tình
Mạc nhĩ khẳng cố
?
Bất nhiên tương
thệ.
Hà vô nhất ngữ
Y tư nhân dã !
Bất đỗng nhi thùy
?
Kê tửu chi điện
Tri hồ, bất tri ?
BÀI DỊCH :
Văn tế
khóc học trò họ Trịnh ở Cổ Liêu (*)
Nhờ người
đến viếng mà khóc rằng :
Trịnh Khải
! Trịnh Khải !
Từng theo
học thầy
Giỏi mà ít
nói,
Nhanh mà
tưởng ngây.
Thương con
vốn nghèo,
Cho dạy lũ
nhỏ.
Thương con
cô đơn,
Tìm nơi
dựng vợ.
Con chưa
thành đạt
Ngày những
ngóng trông
Chí có khi
nản
Khuyên con
vững lòng
Qua tiết
đoan ngọ
Con về
thăm nhà.
Sao từ hôm
ấy
Nhà gần, người
xa?
Ốm, ta
không biết
Mất, ta
không hay.
Bạn con
đến báo.
Ta chưa
tin ngay
Hay ta
chểnh mảng
Mà chẳng
đoái hoài
Sao con
sắp mất
Chẳng trối
một lời?
Ôi! Người
như thế!
Không
thương, thương ai?
Gà rượu
tới viếng
Biết
chăng, con ơi!
NGUYỄN VĂN HUYỀN
dịch
(*) Cổ Liêu là
tên làng cùng huyện với làng tác giả
Bài thơ vô cùng đơn giản, không trau chuốt, nhưng đọc lên xúc động tận tâm can. Chuyện người học trò đột ngột qua đời làm cho ông đau xót, ái ngại như tự trách mình, phải chăng trong việc này là do mình ở với học trò chưa thật hết lòng! Ðây là những dòng thơ phản ảnh một tấm lòng nhân hậu tuyệt vời.
Trong thơ
văn cổ Việt nam, chúng ta rất ít gặp những bài ghi lại cảm tình giữa thầy
trò, ngoại trừ trong thơ văn của ông. Sau 5 năm làm việc ở kinh, ông lấy cớ
bệnh cáo quan về. Ðược vua chấp thuận, ông cùng học trò từ biệt ngoài thành về
quê. Bài thơ ông làm lúc từ biệt này, như sau:
BÍNH NGỌ XUÂN,
THIỆU TRỊ LỤC NIÊN, NHỊ NGUYỆT, SƠ CỬU NHẬT,BỆNH CÁO ÐẮC CHỈ, THẬP TAM NHẬT
QUI, XUẤT THÀNH DỮ CHƯ SINH BIỆT
Kỷ thu hàm trượng
tối tương than
Kim nhật phân
huề, Nam Bắc nhân
Tu tiến khởi vong
ngô đảng sự
Qui lai vị ức cố
viên xuân
Ðông Gia kiều
thượng,nguyệt sơ xuất
Bắc Ðẩu thành
viên, liễu chính tân
Xướng bãi Dương
quan, hồi thủ xứ
Du du nhất bộ,
nhất ngưng thần
BÀI DỊCH :
NGÀY 9 THÁNG 2 NĂM BÍNH NGỌ, THIỆU TRỊ THỨ 6, ĐƯỢC CHỈ NGHỈ
DƯỠNG BỆNH, NGÀY 13 VỀ, RA KHỎI THÀNH , CÙNG HỌC TRÒ TỪ BIỆT
Tình nghĩa thầy trò mấy nắng mưa
Mà nay Nam, Bắc bỗng thành xa
“Tiến, tu”(*) đâu dám quên lời sách
Trở lại, riêng vì nhớ cảnh xưa
Trên bến Ðông gia (**), trăng mới ló
Bên thành Bắc đẩu (***), liễu đương tơ
Dương quan khúc trọn, quay nhìn lại
Mỗi bước chân đi, mỗi thẫn thờ
ÐỖ NGỌC TOẠI dịch
(*) Tiến, tu là chăm lo sự nghiệp và tu chỉnh đạo
đức của người quân tử
(**) Tên cầu ở
kinh thành Huế xưa
(***)Chỉ thành
vua ở
Nếu đầu đề bài
thơ không nói quá rõ và trong bài không có chữ ”hàm trượng” (chiếc chiếu lớn
dành cho thầy dạy học thời xưa ngồi) thì chúng ta có thể nghĩ rằng đây là
bài thơ tả cảnh chia tay giữa những người bạn với nhau. Ðối với học trò, ông
vẫn giữ cách đối xử như đối với những người bạn.
Cao Bá Quát cũng
có một bài thơ tả cảnh chia tay với học trò giống như vậy, nhưng đọc lên ta
thấy ngay lời thơ là lời của người thầy. Ông thầy cố dấu vẻ xúc động trước cảnh
chia ly, bằng cách chế diễu sự mềm yếu của học trò . Bài này nguyên tác cũng
bằng Hán văn, được dịch ra như sau:
Xa xa trời đất cũ
Thăm thẳm trên đường dài
Ngoài thành trời lành lạnh
Lấm tấm hạt mưa mai
Học trò tiễn ta đi
Nắm tay không nỡ rời
Nam nhi mà thế ư ?
Nước mắt đầm đìa rơi !
…………………………
(Đây là trích đoạn từ 1 bài trong quyển Luận đề về Cao Bá
Quát của GS Bằng Phong & Nguyễn Duy Diễn soạn cho học sinh luyện thi Tú Tài
I trong thập niên 60 tại Saigon)
Phạm Văn Nghị sống
khá thọ (75 tuổi), nên ông phải khóc nhiều học trò yêu dấu của ông chết trước ông.
Ngoài nỗi đau lòng về người học trò nghèo tên Trịnh Khải ở Cổ Liêu, ông còn
khóc thương cho hai người học trò nữa. Ðó là phó bảng Ðặng Ngọc Cầu và Tam nguyên
Vị xuyên Trần Bích San.
Ðặng Ngọc Cầu,
năm 1859 từng cùng ông tuyển mộ đoàn quân nghĩa dũng từ Nam Ðịnh vào Ðà nẵng để
đánh Pháp, được ông giao cho nhiệm vụ chỉ huy hậu đạo. Bạn ông là Phạm Văn
Xưởng chỉ huy tiền đạo, và ông chỉ huy chung và coi trung đạo. Trong thời gian
này và về sau tình thầy trò trở thành tình chiến hữu, tình đồng chí. Năm 1871,
ông phụng chỉ dẫn quân lên miền núi, hiệp sức đánh bọn phỉ Tàu. Nhân ngày giỗ
đoạn tang Ðặng Ngọc Cầu, ông làm bài thơ cảm tác với lời ghi chú, gọi học trò
bằng 2 chữ « Ðặng quân » như là gọi một người bạn đồng vai. Bài thơ
đó cũng viết bằng Hán văn,như sau :
ÐẶNG XÁ PHÓ BẢNG
ÐẶNG ÐÀI ÐẠI TƯỜNG NHẬT,
CẢM TÁC
Nguyên chú của
tác giả :” mùa đông năm ấy (1871) tôi phụng chỉ đem quân thủ hạ lên miền núi để
hiệp sức, diệt giặc, gặp ngày giỗ đoạn tang Ðặng quân, cảm tác làm bài này” :
Ai tai Ðặng thị
tử !
Tòng ngã phó
Quảng Nam
Kê quan khí lẫm
lẫm
Nghĩ cổ dã vô tàm
Hồ nhiên uổng
nhất tử
Vạn cổ ưng vị cam
Bất ý ngã niên
lão
Huy kiếm thướng
khê nham
Kim nhật, quân
nhược tại
Ðịnh bất ly chinh
tham
Phùng quân đại
tường nhật
Ðẩu tửu chước chi
tam
Sinh anh, tử tất
linh
Trợ ngã tảo sơn
lam.
DỊCH RA VĂN XUÔI:
Cảm tác nhân ngày giỗ đoạn tang Phó
bảng Đặng Xá, họ Đặng
Thương thay chàng họ Ðặng!
Đã từng theo ta đi Quảng Nam. Khí thế
dũng cảm, lẫm liệt. So với người xưa
cũng không thẹn. Vì sao bỗng nhiên chết uổng? Muôn đời có lẽ chưa có thể nguôi.
Đâu nghĩ nay ta đã già, vẫn vung
gươm lên vùng rừng núi. Nếu ngày nay người còn sống, nhất định chẳng chịu rời
cỗ xe trận. Gặp ngày giỗ đoạn tang người, xin chuốc ba chén rượu. Lúc sống anh dũng, khi chết ắt khôn thiêng. Xin
giúp ta quét sạch khí độc nơi rừng núi.
(Nguyễn văn Huyền
dịch)
Ðối với Trần Bích
San, ông có một mối liên hệ đặc biệt một chút. Trần Bích San là con của bạn
ông, Phó bảng Trần Doãn Ðạt. Lúc chưa đi học, Trần Bích San có tên là Trần Tằng
Tiễu (hai chữ “tằng, tiễu” đều viết với bộ “sơn”, chỉ đỉnh núi cao chót vót. Có
lẽ cha ông mong danh vọng ông lên tới tột đỉnh. Sau này, tài học cùng đạo
đức của ông đã được thể hiện đúng như vậy).
Khi đi học, Trần
Bích San sớm tỏ lộ nét tài hoa, văn hay, hạnh tốt, nên thầy mới đổi tên là Trần
Bích San.
Không ai hiểu trò
hơn thầy, nên Phạm Văn Nghị đã đoán trước được khả năng của từng học trò. Có
một giai thoại chép trong ”Giai thọai làng nho” kể rằng:
“ Trong buổi học chót, trước
ngày học trò từ biệt thầy lên đường về quê, để dự thi khoa thi hương năm Giáp
Tý (1864), thầy dặn các học trò rằng:” Năm nay anh Yên Ðỗ (chỉ Nguyễn Khuyến)
lấy cho thầy cái thủ khoa trường Hà (Hà Nam) , còn anh Vị Xuyên (chỉ Trần Bích
San) thì lấy cho thầy cái thủ khoa trường Nam (Nam Ðịnh), rồi đến kỳ thi hội cố
giật nốt cái tam nguyên”.
Tan buổi học, Yên Ðỗ tức lắm, nói
với Vị Xuyên :” Thầy cho tôi chỉ đỗ được hương nguyên là cùng, thật thấy khinh
tôi quá!”
Vị Xuyên trả lời:” Không phải thế
đâu, bình nhật tôi vẫn kém anh, ý thầy
là muốn khuyên tôi cố gắng cho bằng anh đấy thôi”
Quả nhiên, khoa
thi đó, cả hai người đều đỗ đầu thi hương tại 2 trường thi Hà Nam và Nam Ðịnh.
Nhưng vào thi hội , năm Ất Sửu (1865), Trần Bích San đậu đầu luôn thi hội và
thi đình, còn Nguyễn Khuyến bị rớt, phải ở lại kinh học thêm, mãi đến khoa thi
năm Tân Mùi (1871) mới đậu đình nguyên.
Ai đã từng làm
thầy, ai đã từng đi học, thảy đều biết rằng bất cứ vị thầy nào cũng thương học
trò học giỏi và hạnh tốt. Thế nên, tất cả chúng ta đều có thể hình dung ra được
nỗi đau buồn của thầy Phạm Văn Nghị đến dường nào khi được tin người học
trò yêu của mình chết hết sức đột ngột, trước khi phụng chỉ đi sứ sang Pháp
(1877). Trước sự đau buồn này, ông làm bài thơ điếu học trò, nén đau thương, để
viết những lời ca ngợi tài đức của học trò như ca ngợi một danh nhân:
ÐIẾU TRẦN BÍCH
SAN
Tài ngộ như kim
hữu kỷ nhân
Ðiều canh trực
nghĩ Tống danh thần (*)
Nhất tâm đoạn
thiết duy ưu quốc
Vạn lý phù sa cảm
ái than
Sinh dã hữu nhai
tùy tạo hóa
Tử nan minh mục
trọng quân thần
Hoàn danh, hoàn
cục ninh tu thuyết
Tráng ngã sơn hà
khí vị nhân
DỊCH RA VĂN XUÔI:
Có tài lại gặp hội, đời này có mấy
người. Về việc trị nước, ông không kém gì danh thần nhà Tống. Gang thép một
lòng, chỉ lo việc nước. Thuyền sứ đi muôn dặm, đâu dám tiếc thân. Ðời sống có
hạn, tùy ở tạo hóa. Chết khó nhắm mắt vì nghĩa vua tôi. Trọn danh tiết, làm
xong việc, chưa cần bàn đến. Chỉ biết khí tiết (của ông) làm mạnh mẽ sông núi của
ta còn mãi mãi.
(*) Chỉ Vương
Tăng, đời Tống, xem ghi chú (2) ở dưới
Ðỗ ngọc Toại dịch ra thơ như sau:
Tài ngộ xưa nay được mấy ai
So cùng tướng Tống, kém chi người
Một lòng son sắt luôn lo nước
Muôn dặm bè khơi, dám tiếc đời
Sống chỉ có chừng, quyền tạo hóa
Chết khôn nhắm mắt, nghĩa vua tôi
Vẹn danh, tròn cuộc, không cần nói.
Khí mạnh non sông chửa chút vơi.
TẤM GƯƠNG SÁNG CHO HỌC TRÒ VÀ HẬU THẾ:
Cuộc đời ông có thể ví như một viên ngọc toàn bích. Khi ra làm quan vô cùng thanh liêm. Khi quốc gia nguy biến, quên mình chỉ là một nho sinh, không từng quen việc binh nhung, mộ binh dẹp giặc. Khi thành rơi vào tay giặc ông tự trầm mình hai lần, nhờ học trò cùng quân sĩ trông thấy và kịp cứu sống. Ðối với học trò nghèo thì cưu mang, giúp đỡ, thay cha mẹ lo việc gia thất cho học trò. Khi học trò mất đột ngột, tự trách mình chưa ở hết lòng với học trò. Ðối với học trò đã thành đạt, đối xử ngang hàng như bạn. Ðối với học trò cùng với mình tham gia chống giặc thì coi như chiến hữu, đồng chí.
Con người như
thế, lúc nào cũng là một tấm gương sáng chọ học trò noi theo. Thầy tài đức như
thế, làm sao chẳng đào tạo được học trò tài đức. Khi quốc gia lâm nguy, rồi
nước mất, nhà tan là lúc để lòng người thử thách với nghịch cảnh.
Học trò ông
như :
* Nguyễn Cao, khi bị giặc bắt, dùng gươm tự moi
ruột tự sát.
* Phạm Thận Duật khi bị Pháp bắt cùng vua Hàm
Nghi, không chịu khuất phục, nên bị đày đi Phi Châu, nửa đường bị mất, xác vất
xuống bể.
* Trần Bích San, từ Hà Nội về Huế sửa soạn đi
sứ sang Pháp, tối còn bàn luận mọi việc với vua, khuya về công quán đã mất. Cái
chết đột ngột này, có sách cho rằng ông tự nuốt giấy bổi để tự tử vì nghĩ sẽ
bị Dupre’ làm nhục mình để trả thù chuyện cũ, sẽ làm nhục luôn quốc
thể, khi tàu đi sứ phải ghé Saigon trước khi đi Paris.(9)
* Ðỗ Huy Liêu, từng là thầy dạy Tôn Thất Ðạm và
Tôn Thất Thiệp trong thời gian tham gia phong trào cần vương. Khi nước mất, bị
giặc bắt giam, bị mua chuộc, nhưng nhất định không chịu ra làm quan. Sau khi lo
đoạn tang cho mẹ xong vào buổi chiều, thì buổi tối từ trần. Cái chết này cũng
có sách cho là do ông uống thuốc độc sau khi trả hiếu cho mẹ xong.
* Lữ Xuân Uy chống Pháp, bị bắt và đày đi Côn
Ðảo rồi chết ở đảo.
* Tống Duy Tân, Vũ Hữu Lợi khởi nghĩa chống Pháp
và cả hai đều bị giặc giết.
* Đinh Công Tráng,
chiến sĩ cần vương chống Pháp, anh hùng dân tộc lừng danh với chiến lũy Ba Đình,
chống nhau với Pháp suốt 3 năm, về sau thành bị vỡ và tử trận
* Nguyễn Khuyến thì bất hợp tác với Pháp, giữ
tròn khí tiết.
Xem thế đủ biết
cuộc đời ông đã ảnh hưởng sâu sắc như thế nào đối với cuộc đời và phẩm
chất đạo đức của học trò. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả những nhân tài do ông
đào tạo đều là những nhân vật đáng lưu danh lại cho hậu thế.
Khi ông mất, nhân
sĩ, bạn bè, và nhất là học trò đều tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Ðỗ huy Uyển,
thân sinh Ðình nguyên Ðỗ Huy Liêu và cũng là bạn ông, trong một bài điếu văn dài
có viết : ” Ôi! Giặc Tây vốn xảo trá, độc
ác, tiên sinh chẳng phải không biết không địch nổi, đánh chưa hẳn thắng, giữ
chưa hẳn vững. Việc đánh giữ ấy, kẻ trí giả không ai làm, mà tiên sinh cuối
cùng làm được. Không lo, không sợ, biết có vua, chẳng biết có mình; biết có
nước, chẳng biết có nhà, tiên sinh chỉ còn nghĩ đến điều nghĩa mà thôi, thật
không hổ với tên hiệu là Nghĩa Trai.”
Và một đoạn khác
viết:” Học trò tiên sinh có đến hàng
nghìn người,kẻ văn, người võ đều tài cán, giỏi giang. Bậc hiền nhân, quân tử
đều khen, cũng chẳng phải nói nhiều mới rõ."
Nguyễn Quang
Bích, một lãnh tụ Cần vương, học trò của Doãn Khuê (Doãn Khuê là bạn ông) có
câu có câu đối viếng ông:
“Dữ ngã sư đồng bảng hựu đồng tâm, vọng chí như Thái sơn, Bắc đẩu.
Y tạo vật hữu lai
hoàn hữu vãng, tương phục vi cảnh tinh, khánh vân”
Nghĩa: “Với thầy tôi, cùng chí lại cùng khoa,
lồng lộng Thái sơn, Bắc đẩu.
Lẽ tạo vật có sinh thời có
hoá, ngời ngời sao sáng, mây lành”
Nhưng cảm động
hơn cả là những câu đối, bài điếu văn của học trò ông. Chỉ trong hai câu đối và
bài điếu văn tiêu biểu nhất, ta thấy người học trò nào cũng nhắc đến ơn nghĩa
của thầy như ơn nghĩa các bậc sinh thành. Ðặng Duy Trinh, án sát Cao Bằng có
câu đối viếng thầy, nguyên bằng chữ Hán, được dịch nghĩa như sau:
“Một phiến đá núi An, một
áng mây Liên động, muôn kiếp thanh danh lừng lẫy.
Thuở trường học Tam Ðăng, thuở hành
quân Ðà nẵng, ba sinh ơn nghĩa cao dày”
Tống Duy Tân khóc
thầy:
“Phu tử tiên
thiên hạ chi ưu,kỷ độ thăng trầm thân thế
Ðệ tử thị tiên
sinh do phụ,bách niên tồn một thủy chung”
Nghĩa: “Tiên sinh lo việc trước người đời, thân
thế nổi chìm ôi mấy độ.
Ðệ tử coi thầy như thân phụ, mất
còn chung thủy mãi trăm năm.
Ðặc biệt hơn cả
là bài điếu văn dài do Phạm Thận Duật, thay mặt toàn thể học trò ông đang làm
quan tại kinh, viết gởi về khóc thầy, trong đó có đoạn viết:
"Tuy tiên sinh mất rồi, nhưng
cái điều không bao giờ mất là cái chính khí hạo nhiên vẫn cùng với non Côi, bể
Nha, động Liên Hoa mãi mãi bất hủ. Ngưòi đời nay, người mai sau, nghe thấy
phong độ của tiên sinh ai mà chẳng kính mộ, ai mà chẳng noi theo, như thế thì
tiên sinh chưa phải là mất. Than ôi! Học trò cũng như con, vậy mà thấy ốm chúng
con chẳng được hầu thuốc; thầy mất chúng con chẳng có thư thăm viếng; lúc chôn
cất, chúng con chẳng được tiếng khóc đưa. Thầy coi học trò như con, mà học trò
chẳng thờ thầy như cha. Đau xót thay!"
Từ những nhận định trên, dựa vào những chứng cứ lịch sử và và văn thơ của
chính ông, chúng ta có thể xác định rằng Phạm Văn Nghị là một sĩ phu yêu nước
chân chính, một vị thầy xuất sắc nhất trong lịch sử giáo dục của dân tộc ta. Và
để kết thúc, chúng
ta cũng có thể mượn lời thơ của chính ông nói thay cho cảm nghĩ của tất
cả mọi người thuộc nhiều thế hệ đối với ông:
Y tư nhân dã ! Bất đỗng nhi thùy ?
(Một người như thế ! Không thương,
thương ai ?)
GHI CHÚ:
(1) Tuổi nêu trong bài này là tuổi ta, để phù hợp với cách tính tuổi trong các tài liệu tham khảo
(2) * Trần Bích San,
sinh năm Mậu Tuất (1838), tại làng Vị xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh, liên
tiếp đậu đầu 3 kỳ thi: Ðậu đầu thi hương năm Giáp Tý (1864) tại trường
thi Nam Ðịnh, đậu đầu thi hội và thi đình năm Ất Sửu (1865).Vì đậu đầu liên
tiếp 3 kỳ thi như thế nên gọi là liên trúng tam nguyên. Bài phú đình thí
của ông được vua Tụ đức phê son, hết lời khen ngợi, và ban cho ông tên là Hi
Tăng là có ý hi vọng ông cũng sẽ làm được như Vương Tăng, đời Tống, cũng liên
trúng tam nguyên như ông và sau làm đền tể tướng.
* Nguyễn Khuyến,
sinh năm Ất Mùi (1835) tại làng Yên Ðỗ,Hyện Bình Lục, Hà Nam, đậu đầu thi
hương tại trường thi Hà Nam (cùng năm với Trần Bích San, năm Giáp Tý (1864),
nhưng rớt thi hội và thi đình, mãi đến khoa sau, năm Tân Mùi (1871) mới đậu đầu
thi hội và thi đình. Trường hợp Nguyễn Khuyền gọi là cách trúng tam nguyên.
* Ðỗ Huy Liêu sinh
năm Giáp Thìn (1844) tại làng La ngạn, huyện Nghĩa Hưng, Nam Ðịnh đậu đầu thi
hương năm Ðinh Mão ( 1867) và đậu đầu thi đình năm Kỷ Mão (1879)
Trước Trần
Bích San và Nguyễn Khuyến, trong các triều vua trước, có những vi đậu tam
nguyên là :
- Ðào Sư
Tích đậu năm Giáp Dần (1374) đời Trần Duệ Tông
- Phạm Đôn
Lễ đậu năm Tân Sửu (1481) đời Lê Thánh Tông
- Võ Dương
đậu năm Quý Sửu (1493) đời Lê Thánh Tông
- Lê Nại
đậu năm Ất sửu (1505) đời Lê Uy Mục
- Nguyễn
Bỉnh Khiêm đậu năm Ất Mùi (1535) đời nhà Mạc.
- Và đặc biệt có
một vi đậu tứ nguyên (đậu đầu 4 kỳ thi : thi hương, thi hội, thi đình và thi
ứng chế) là Nguyễn Ðăng đậu năm Nhâm Dần (1602) đời Lê Kính Tông
(3) Phạm Thận Duật (1825-1885) quê
Ninh Bình, đỗ Cử nhân năm 1852 làm quan đến chức Thượng thư bộ hộ, năm 1884 là
người trong nhóm thay mặt triều đình Huế ký hàng ước Patenotre với Pháp. Phò
vua Hàm Nghi xuất bôn chống Pháp, bị bắt, không khuất phục, bị đày đi Phi châu,
giữa đường bị chết, xác vất xuống biển.
(4) Tống Duy Tân (1837-1892)
Quê Thanh Hoá, đậu tiến sĩ năm 1875, làm quan từ tri phủ, đến đốc học, tham
biện rồi chánh sứ sơn phòng Thanh hoá. Thủ lĩnh cần vương Thanh Hoá. Bị học trò
là Cao Ngọc Lễ báo cho Pháp bắt và bị tử hình năm 1892
(5) Vũ Hữu Lợi (1836-1884):
quê Nam định, đậu tiến sĩ năm 1875, làm đốc học Nam định. Bỏ quan về mộ quân
chống Pháp. Bị Võ Văn Báo lừa bắt đem nộp cho Pháp,bị xử tử năm 1884. Học trò
là Ðinh Quang Nhường chỉ huy nghĩa binh bắt được Võ Văn Báo đem đốt sống trả
thù cho thầy.
(6) Lữ Xuân Uy (1838-1890) quê Nam
định, đậu phó bảng năm 1865, làm quan đến chức Tuần phủ. Bị thua Pháp, chạy
sang Trung quốc, rồi trở về tiếp tục chống Pháp. 1889 bị bắt và đày đi Côn đảo,
1890 mất ở đảo này.
(7) Ðặng Ngọc Cầu (1825-1869)
quê Hà Nam, đậu phó bảng năm 1848, từng làm bố chính và Bang biện tỉnh vụ Hà
Tĩnh. Từ năm 1859 theo thầy học chống Pháp và sau 10 năm tham gia cần vương
chống Pháp thì mất.
(8) Nguyễn Cao (1828-1887) quê
Bắc ninh. Bà mẹ nổi danh là một tiết phụ. Ông đậu cử nhân năm 1867. Làm quan từ
tri huyện, tri phủ lên đến bố chính. Tham gia chông Pháp giữ chức Tán tương
quân vụ. Năm 1887 bị Pháp bắt, ông dùng gươm mổ bụng tự sát.
(9) Trong “Giai thoại làng
nho” có chép câu chuyện như thế này :”Khi Trần Bích San làm Tuần phủ Hà nội ông
phải giao thiệp với người Pháp. Một lần thủy sư đô đốc Dupre’ ghé thăm ông có
dẫn theo một con chó, là con vật y yêu quý. Ông vừa đón khách vào công đường
mời ngồi, thì con chó cũng nhảy lên nằm trên ghế đối diện. Ông cho đây là dụng
ý của Dupre’, nên sai lính hầu đập chết ngay con chó. Dupre’ căm vì mất
chó, lại bất mãn về thái độ rúng rẩy của một vị quan Việt Nam, nên hầm hầm ra
về. Vì việc này, ông nghĩ, khi đi sứ sang Pháp, tàu sứ phải ghé Saigon, ông
ngại Dupre’ sẽ làm nhục ông để trả thù và sẽ làm nhục luôn quốc thể, nên ông
làm một bài thơ tuyệt mệnh, rồi nuốt giấy bổi mà chết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Việt Nam danh
nhân từ điển, Nguyễn Huyền Anh, Văn hoá bình dân, Saigon 1960
- Ðại Việt lịch
triều đăng khoa lục, 4 tác giả, Tạ Thúc Khải dịch, Bộ quốc gia giáo dục xuất
bản, Saigon 1962
- Quốc triều đăng
khoa lục, Cao Xuân Dục, Lê Mạnh Liêu dịch, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản,
Saigon 1962
- Hợp tuyển thi
văn Việt nam, tập IV, NXB Văn hoá,Hà nội 1963
- Giai thoại làng
nho, Lãng Nhân, Nam chi tùng thư, Saigon 1966
- Thơ văn Phạm Văn
Nghị, Nguyễn Văn Huyền, NXBKHXH, Hà nội 1979
- Thành ngữ điển
tích, Diên Hương, NXBTH Ðồng Tháp,1992
- Tự điển nhân
vật lịch sử Việt Nam, Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế, NXB Văn hóa, in lần thứ
4, Hà nội, 1997
- Việt sử toàn
thư, Phạm Văn Sơn, Tủ sách Sử học, Cơ sở xuất bản Ðại Nam, xuất bản tại Hoa Kỳ,
1984
Tài liệu sao chép
tay 2 bài viết về Trần Bích San, do Cử nhân Nguyễn Khắc Bỉnh viết, đăng
trong An nam tạp chí số 16,và bài của Mặc Khách viết đăng báo Tiếng Dân
số 1661, 1662 năm 1942
P.Anh
''Tôn Sư trọng Đạo'' Nghĩa làm Người.Tình Thầy Trò ngàn năm mãi sáng Thầy là gương soi cho các học trò noi Thầy độ lượng bao dung ,đem hết cả cái tâm ra sức dạy dỗ trò nên Người Ơn Thầy cao hơn núi Tình Thầy ban bố khắp nơi.Vẫn ưu đãi là mầm xanh vươn tới Là học trò tương lai sáng ngời.Thầy đã cho kiến thức học làm Người trước những văn hóa đòn bẫy đưa lên đài danh vọng sau nầy.Trả ơn Thầy là những học trò làm nên danh phận.Hạnh phúc của Thầy chỉ mong được có thế mà thôi!Thầy Phạm văn Nghị-Nghĩa Trai.Một người Thầy đúng nghĩa Người Thầy,đã dốc tâm sức cả đời cho sự nghiệp của mình,tương lai của học trò.Thật không gì ngưỡng mộ cho bằng .Được trông thấy,được biết thành quả lao động của Thầy.Một vị Thầy đáng kính xứng đáng cho hậu thế noi theo.Học trò cũng thế!Ơn Thầy -Trò đáp trả bằng thành quả học tập''Không thành danh cũng thành Người''Thế mới là hạnh phúc cả đôi bên Là cáí phúc cho đất nước vận nhà bình yên trăm họ Chính là nền giáo dục ''Tôn Sư trọng Đaọ'' mà ra cả..''Thầy ra Thầy -Trò ra Trò''.Rạch ròi như thế mới ra ''Con Người'' Qui cũ không xưa mọi thời?Mọi lúc mọi nơi có những người Thầy như thế Trò như thế ai người cười chê phải nào?Thời buổi văn minh loạn trào biết nói sao!?Cái Tâm hủy hoại đồng tiền lên ngôi!Ước gì như ngày xưa tính Người Ai ai cũng nghĩ sống đời bằng Tâm?Cái Tâm tầm Sư học Đạo.Không phải mục đích kiếm sao dược tiền!Xã hội ngày nay tân tiến.Đổi mới gì đổi đừng đổi cái chuyện;Trọng Đạo tôn Sư?
Trả lờiXóa