Ngày
xưa, cái học “thiên kinh vạn quyển”, chắc là cái học ở chốn kinh thành, ở nơi
có các trường thi dành cho các sĩ tử “cướp cờ, cướp biển”, như ở quê tôi có trường
thi Hương Bình Định. Chứ còn ở các vùng nông thôn thì cái học trường lớp hiếm
hoi lắm, số người đi học ít mà sách cũng ít.
Sách
Tam thiên tự (tác giả Đoàn Trung Còn) dạy vỡ lòng chữ Nho. Trẻ con nông thôn học
ông thầy đồ ở trong làng sách Tam thiên tự với những câu: “Thiên - trời, địa -
đất, cử - cất, tồn - còn, tử - con, tôn - cháu”… Ai học hết sách thì có vốn
3000 từ làm “hành trang” buổi đầu đi học. Nhiều trẻ con học chưa hết sách đã phải
nghỉ học, vì nhà nghèo, cần ở nhà giúp đỡ cha mẹ. Những trẻ này tới khi lớn lên
thành anh trai làng, bác nông dân, nhờ chút học đó, mà không bị xấu hổ, vì:
Không biết được chữ Nhất là một.
Tam
tự kinh (Sách ba chữ, do Vương Ứng Lân, Trung Quốc biên soạn) tập hợp những
tinh hoa của Nho giáo. Ở trong các làng quê xưa, nhiều bác nông dân vừa mới rửa
chân tay cho sạch bùn đất để đi ăn giỗ, nhưng đã ngồi vào cỗ là “nói chữ”, “xổ
Nho”: từ “Nhân chi sơ Tánh bản thiện. Tính tương cận Tập tương viễn” (Người thuở
đầu, tánh vốn lành. Tánh nhau gần, thói nhau xa.)…đến “Dưỡng bất giáo Phụ chi
quá Giáo bất nghiêm Sư chi đọa”: (Sinh không dạy, lỗi ở cha. Dạy không nghiêm,
lỗi tại thầy). Cảnh ngồi cỗ giỗ mà đối đáp, rượu vào lời ra thế cũng vui, thường
khi làm được việc giáo hóa điều gì đó. Từ
“xổ Nho” (cũng nói xổ Nho chùm) cũng có ý thầm phục: Các vị có học đàng hoàng,
có Hán rộng!
Sách
Minh tâm bảo giám (tác giả Trương Vĩnh Ký) được nông dân thích học, cứ bảo: “Đó
là gương báu soi lòng”. Nhiều câu trong sách Minh Tâm nghe nói hoài giống như
ăn cơm bữa, và sớm nhập tâm, trở thành nếp sống, nếp nghĩ của mọi người: “Tích
thiện phùng thiện, tích ác phùng ác Thiện hữu thiện báo Ác hữu ác báo” (Chứa
lành thì gặp lành, chứa ác gặp ác. Thiện có lành báo, ác có dữ báo). Rồi những
câu khuyên dạy: “Phàm nhơn bá nghệ hảo tùy thân / đổ bác môn trung mạc khứ thân
/ năng sử anh hùng vi hạ tiện / giải giao phú quý tác cơ bần”… (Hễ biết nghề
nào cũng ấm thân. Mấy nơi cờ bạc chẳng nên gần. Anh hùng mắc phải ra hèn hạ.
Phú quý lâm rồi lại khó khăn)… Rất phổ cập, đến thành bài học, thành “câu hát”
mùi mẫn ở trong các làng quê.
Trên
là những sách “giáo khoa” nông dân ít nhiều có thời trẻ thơ được học với ông thầy
đồ hoặc với cha, anh ở nhà.
Tứ
thư, Ngũ kinh là những sách dành cho nho sĩ. Những nho sinh, sĩ tử có mộng khoa
danh thì cố “ôn nhuần kinh sử”. Còn đa số nông dân, nhờ cuộc sống làng quê có sự
chung đụng giữa nho sĩ và nông dân mà kiến thức được chia sẻ cho nhau. Nông dân
vẫn “nói chữ”: “Quân quân thần thần phụ phụ tử tử” (Vua - tôi, cha - con, ai có bổn phận nấy - Luận ngữ)
mỗi khi muốn nhắc nhở cái bổn phận phải lo cho tròn, cái quan hệ, kỷ cương phải
giữ. Ngoại tôi là nông dân, ông đã chọn một câu hay trong Kinh Thi: “Quan Quan
Thư Cưu Tại Hà Chi Châu Yểu Điệu Thục Nữ Quân Tử Hảo Cầu” (Chim thư cưu kêu
quan quan… trên cồn sông Hoàng Hà. Gặp người gái đẹp, quân tử phải lòng) mà đặt
tên cho các người con của Ngoại. Ngoại có 16 người con trai gái, má tôi thứ 8
xinh đẹp, trúng tên Châu: Nguyễn Thị Minh Châu, cũng đẹp.
Sau
này, hết thời chữ Hán lâu đến ngàn năm bước sang thời chữ Quốc ngữ mới ra đời.
Đại
Nam quốc sử diễn ca (của Phạm Đình Toái) được dạy ở trường Tiểu học. Vẫn thường
vang vọng trong xóm thôn tiếng ôn tập bài học của các học trò trường Huyện. Khi
thì: “Hùng vương đô ở Châu Phong / Ấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao giang / Đặt
tên là nước Văn Lang / Chia mười lăm bộ bản chương cũng liền…”. Khi thì: “Bà Trưng quê ở Châu Phong / Giận người
tham bạo thù chồng chẳng quên / Chị em nặng một lời nguyền…”.
Đến
sách Quốc văn giáo khoa thư (QVGKT - nhóm ông Trần Trọng Kim biên soạn), được
những “nông dân” ấu thơ học với cả lòng hứng thú. Bài nào học cũng mau thuộc,
mau nhớ. Bài Rắn đầu biếng học (của Lê Quý Đôn): “Chẳng phải liu điu vẫn giống
nhà / Rắn đầu biếng học quyết không tha / Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ / Nay
thét, mai gầm rát cổ cha…” là một trong những bài trong sách được học một lần
là nhớ cả đời. Người ta nói, có “tình nghĩa giáo khoa thư” để chỉ cho tình bạn,
tình huynh đệ giữa những người cùng học chung cuốn sách đó. Chẳng bao lâu, những
chú bé học trò ngày trước học QVGKT trở thành các bác nông dân thuộc sử nước
nhà, biết cảm thụ, biết thế nào là một bài văn hay.
Từ
nhỏ tới lớn, ta vẫn nghe ông cha cứ dặn bảo “Học làm người”, bài học cần học cả
đời. Và ai cũng biết cái phẩm chất bao trùm của làm người là hiếu thảo, cho nên
những nhà chứa sách (tích thư) đều có cuốn Nhị thập tứ hiếu (tác giả Lý Văn Phức).
Bác nông dân nhân khi nhàn rỗi, vẫn ngồi đó “giảng sách” Nhị thập tứ hiếu cho
con cháu nghe mà cũng là dịp cho chính mình ôn lại: “Người tai mắt đứng trong
trời đất / Ai là không cha mẹ sinh thành / Gương treo, đất nghĩa trời kinh / Ở
sao cho xứng chút tình làm con…” …vẫn kể rành rẽ 24 gương hiếu cảm động trời đất
được ghi trong sách cũng như được truyền khẩu trong dân gian. Trong xóm thôn,
những nhân vật Tử Lộ, Mẫn Tử Khiên… hình như ai cũng biết.
Bên
cạnh cuốn Nhị thập tứ hiếu, trên giá sách của các gia đình, còn có quyển Gia huấn
ca. Từ khi quan đại thần Nguyễn Trãi viết Gia huấn ca, trong cả nước (Đại Việt
hồi đó, nước Việt sau này), thì nhà nhà đọc, nhà nhà dạy Gia huấn ca. Người ta
hứng hát, ngồi không với nhau hát: “Đặt quyển sách vắt tay nằm nghĩ / Hễ làm người
dạy kỹ thì nên”. Người nông dân vẫn bảo “Dạy con từ thuở còn thơ…”, thật
đã cảm hứng từ bài học Gia huấn ca. Thực là ông cha ta đã đề cao vai trò quan
trọng bậc nhất của giáo dục.
Tuy
không thiên kinh vạn quyển như đã nói, nhưng bằng mấy cuốn sách đó, kết hợp với
kinh nghiệm bản thân, nông dân đã nâng cao kiến thức, học được bao điều lợi
ích. Không ai nghi ngờ chuyện nông dân thuộc Sử Việt, trong tâm thức nông dân
có niềm tự hào lịch sử nước nhà có Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang
Trung… Nông dân không cục mịch như người ta tưởng mà trái lại họ có một tâm hồn
đa cảm, luôn tìm đến với văn chương - nghệ thuật. Người ta vẫn ham thích đọc tiểu
thuyết chương hồi (Trung Quốc), văn biền ngẫu, truyện cười dân gian… bằng cách
ai biết chữ thì đọc, ai không biết đọc biết viết thì nhờ con cháu đọc cho nghe.
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn viết về phong tục, chuyện tình đôi lứa không thành;
thơ Tiền chiến viết về đồng quê của Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ… vẫn đem
lại sự yêu thích cho các nông dân biết đọc biết viết. Nông dân ta chẳng những đọc
sách, “giảng sách”, “nghe sách” mà còn là người sáng tác nữa. Ca dao, dân ca,
hò vè … là sáng tác đầy hứng thú từ những tâm hồn yêu thương, trong trẻo của
nông dân.
Bây
giờ xin hỏi, nhờ đâu mà những cuốn sách xưa phổ cập tới những người nông dân sống
trong các làng quê hẻo lánh như vậy? Chắc là trong các nguyên nhân được nêu ra,
có nguyên nhân tôi cho không thể thiếu: Đó là sách hay, sách đem lại cho người
ta cái thú đọc sách.
Ngày
nay, có ai về nông thôn (giữa thời buổi nhiều sách báo, có tủ sách xã thôn), mà
tìm một nông dân thuộc năm ba câu Kiều, vài đoạn Lục Vân Tiên, biết chuyện Nỏ
thần An Dương vương, Thánh Gióng… để cùng nhau hào hứng “trà dư tửu hậu” thì thật
khó quá. Cái “thú đọc sách” (Trước đèn xem truyện Tây Minh - Lục Vân Tiên), cái
từ “nghe sách”, “giảng sách”, rất quen hồi xưa, nay cũng không còn trông thấy,
nghe thấy nữa.
Huỳnh Kim Bửu
Cố GS Trung Học
QuangTrung BinhKhe
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét