Xưa
nay, người ta vẫn bảo Bình Định là cái nôi của hát bội. Thi sĩ “Túi thơ đeo khắp
ba kỳ” là Tản Đà, trong một chuyến “xuyên Việt” đã dừng chân ở Bình Định để xem
hát tuồng và để lại câu thơ khen
“Tuồng Bình Định, rạp Phú
Phong
Nam Ô nước mắm, tỉnh Đông
chè tầu”
Tôi
ở một vùng quê thuộc Bình Định, quanh năm người quê tôi chăm lo làm ăn, đồng cạn
đồng sâu, chợ sớm chợ chiều, nhưng cũng có nhiều dịp để xem hát bội, thưởng thức
món ăn tinh thần của mình.
“Rằm giêng hát hội Phò
An”
Phần
lớn các làng có lập đình thờ Thành hoàng. Có làng như làng Háo Đức lập chùa thờ
Quan Vũ (tục gọi là chùa Ông), làng Liêm Lợi lập chùa thờ Bà Mụ linh đỡ đẻ cứu
người cứu vật (1) (gọi là chùa Bà), làng dệt Phương Danh lập chùa thờ tổ nghề dệt
tơ lụa (tục gọi chùa Kén) … Các làng có lệ “Xuân Thu nhị kỳ” để cúng tế hàng
năm ở các đình chùa. Việc cúng tế đó thường có kèm theo hát bội. Hát bội cũng
thường được tổ chức khi làng sửa chữa, tôn tạo đình làng đã xong. Đám hát này gọi
là hát “lạc thành”. Tháng giêng, sau Tết Nguyên Đán, và tháng ba có tiết Thanh
minh là những tháng rộ lên nhiều cuộc hát đình, hát chùa. “Lịch hát” được kể
thành vè:
Rằm giêng hát hội Phò An
Đến ngày mười bảy hát sang
chùa Bà
Hai mươi, hăm mốt, hăm ba
Muốn gần chợ Rượu muốn xa Cảnh
Hàng
Chim kêu trên núi Chà Rang
Em đi xem hát giần sàn mốc
meo
Lịch
đó mới kể đám hát trên đất liền, chưa có đám hát ngoài đảo xa. Quy Nhơn có 3 đảo
Nhơn Lý, Nhơn Hải và Nhơn Châu. Mùa Xuân, các đảo luân phiên nhau hát: Hát chùa
thờ Cá Ông, hát cầu ngư. Khi đảo này hát thì người các đảo khác đi xem, không
đi xem thì bị trách móc, vì đó là tình đoàn kết của ngư dân. Người ta gác việc
đi biển và dong thuyền buồm đi xem hát bội.
Những
tư gia sinh quý tử, con cháu thi đỗ, người làm quan được thăng quan tiến chức,
được sắc phong … cũng thường rước gánh hát về hát mừng, hát tạ ơn, và đãi cho
bàn dân thiên hạ xem. Năm nào trong vùng cũng có một vài đám hát tư gia.
Hát
đình, hát tư gia thường từ 1 – 3 ngày. Các vở tuồng để hát, quanh đi quẩn lại:
Hát lễ trước hương án có Cổ thành, sau đó hát San Hậu thành, Phụng Nghi đình
…Người ta tin tưởng rằng hình tượng Quan Công, trong hát án, hát lễ với mặt đỏ
râu dài, tay cầm thanh long đao trên sân khấu và với đức trung nghĩa thiên thu
phò Lưu Bị là hiện thân của thần linh phù hộ cho họ.
Lại
còn có hát trường nữa. Có trường hát thì có ông chủ trường, chủ rạp. Ông chủ
trường hát là người bỏ tiền ra lập trường hát vì mục đích kinh doanh, thường
thì ông cũng là bầu hát. Nhưng cũng có những chủ trường hát “vô tư”, lập
trường hát là vì yêu hát bội hoặc yêu say đắm cô đào hát hay, thanh sắc mặn mà.
Nói chi Bình Định, Đập Đá là chỗ phố thị giàu có, đông người phải có trường
hát, rạp hát để lấy tiền người ta; ở các làng xã xa xôi hẻo lánh cũng có nhiều
nơi lập trường hát, như xã Nhơn An của tôi có lúc có đến ba trường hát. Mỗi đợt
hát trường thường kéo dài, có đợt cả tháng, hát đến khi nào hết tuồng, “tôn
vương” hoặc khán giả hết tiền mua vé, mới thôi.
“Hát bội hành tội người
ta”
Xem
hát nhiều quá, nhà nông bỏ bê việc ruộng đồng (tệ hại nhất là khi nông vụ tấn
thời), dân buôn bỏ chuyến, bà nội trợ bỏ chợ, dân chài bỏ đánh bắt cá …. Hoặc
giả ai đó có ráng đi làm thì cũng mắt nhắm mắt mở, năng suất hiệu quả công việc
không ra sao. Đám học trò nhỏ chúng tôi cũng vì mê hát mà bỏ học.
Có
một năm dân làng tôi thấm thía bài học này. Năm đó làng An Định hát Tế thu, tống
ôn năm cũ. Mới bắt đầu hát thì trời đổ mưa. Hát ba ngày ba đêm, hết Quan Công
phò Nhị Tẩu đến ba lớp Giang Sơn (San Hậu thành), trời vẫn mưa dầm. Người xem
hát vẫn đông, dù phải đội nón mang tơi đứng dưới mưa mà xem. Lúa hè thu chín
ngoài đồng ngâm tôm nước lụt, rục xuống, nứt mộng. Xem hát xong, người ta ra đồng
vớt lúa mộng đem về nhà, sản lượng lúa mất quá nửa, khiến người ta dở khóc dở
cười bảo nhau “Hát bội hành tội người ta”, và chuẩn bị tinh thần đón cái tết
nghèo, cái đói giáp hạt sắp tới khó tránh khỏi. Những năm sau tránh hát Thu kỳ
lập lại cảnh đó, người ta cất rạp hát ngàn chỗ ngồi và chỉ hát sau khi đã thu
hoạch xong lúa hè thu, tức hạt lúa đã vào bồ, vào lẫm nhà nông rồi.
“Mẹ ơi đừng đánh con
đau”
Nghề
hát bội thường là nghề có truyền thống gia đình. Ông bà, cha mẹ làm bầu hát,
theo nghiệp hát thì con cháu thường noi dấu, đi theo nghề. Tuy nhiên, nhà “ngoại
đạo” cũng có con cháu theo nghề hát. Những ai ở trường hợp này thường bị gia
đình không bằng lòng. Đó là bởi thành kiến “xướng ca vô loại” mà điển hình là
cô Lành ở làng An Định. Cô Lành mê hát rồi xin mẹ cho theo hát, làm đào cho
gánh hát ông bầu Chẩn ở trong làng. Mẹ cô là bà Hai Đấu quyết không cho con gái
mình theo hát, đánh đòn và đòi “từ” cô, mà vẫn không ngăn được. Từ khi cô Lành
đi theo hát, bà Hai Đấu như người tâm thần, ra đường gặp con gái nhà ai xinh
như con mình, bà đều chỉ vào mặt, mắng:
Trồng trầu thả lộn dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con
hư
Ngó lên hòn núi Mù U
Con theo hát bội Xuân - Thu
mẹ buồn
Nhưng
cũng có trường hợp cha mẹ sớm thuận, chiều ý con, đó là nhờ lòng hiếu thảo của
con cái:
Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con theo hát làm đào mẹ
coi
Người ta sống theo hát
bội
Tuồng
hát bội thường có người trung, kẻ nịnh, có cảnh “người trung mắc nạn, đứa gian
vui cười” nhưng đến hồi kết thúc thì tuồng nào cũng có “hậu”. Thái tử hết hồi
hoạn nạn, được lên ngôi vua. Trung trần trải gan dạ theo phò vua giúp nước được
hưởng vinh hoa phú quý. Người quê tôi ngồi xem hát, thương – giận, căm tức – hả
hê theo tuồng, rồi về nhà sống cho mình, sống với xung quanh làng nước cũng bằng
cách ấy, phản ứng tình cảm theo cách ấy. Từ đó, ai cũng lo ăn hiền ở lành, tin ở
lẽ công bằng của trời đất, luật nhân quả, chính nghĩa tất thắng phi nghĩa, thần
thánh không ở xa, rồi sẽ cứu khổ cứu nạn cho người tốt …Trong mỗi làng, thường
có chùa thờ Quan Vũ, trong mỗi nhà thường có trang thờ Quan Công, tức là thờ
cái lòng Trung Nghĩa Thiên Thu, dù gặp phải cảnh ngộ nào cũng không dời đổi của
vị này.
Đó
là người lớn, còn lũ nhỏ chúng tôi thì tối đi xem tuồng gì sáng về nhà rủ nhau
diễn lại tuồng ấy. Cũng vẽ mặt lọ nồi, mang râu ngô, cầm thương giáo bằng gậy
tre, cán trúc mà sắm vai tuồng. Thường, chúng tôi gặp khó khăn khi phân vai:
không đứa nào chịu làm thằng gian thần mặt mốc râu rìa như Bàng Hồng, Hàn Phụng
… mà đứa nào cũng đòi được “thủ vai” người trung, tướng quân tài giỏi mặt đỏ
râu dài, tướng mạo khôi ngô như Quan Vũ, Triệu Tử Long …
Từ mê hát bội đến mê đọc
tiểu thuyết chương hồi
Dân
làng hồi xưa rất ít người biết chữ nhưng người ta “mê” đọc sách hơn bây giờ. Mà
chỉ mê một loại sách là tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, kế đó là chuyện
thơ nôm truyền khẩu trong dân gian. Lý do mê sách là bởi chính đây là “Tích dịch
ra tuồng”, không có tích thì làm sao có tuồng, đọc sách nghe sách là để hiểu
thêm tuồng. Đọc sách Tam quốc diễn nghĩa là để biết thêm pho tuồng Tam quốc, đọc
tiểu thuyết Mạnh Lệ Quân là để biết thêm tuồng Mạnh Lệ Quân, đọc tiểu thuyết
Ngũ Hổ bình Tây, đọc truyện nôm Thạch Sanh, Lưu Bình – Dương Lễ …cũng nhằm mục
đích ấy. Khách vào thăm làng, bất kể sớm trưa hay chiều tối vẫn thường được
nghe tiếng đọc sách ở trong làng như nghe tiếng mẹ ru con, bà ru cháu vậy. Một
người (thường là cậu học trò lớp nhì, lớp nhứt tiểu học) đọc ngân nga mà rõ to
cho 5 – 7 – 9 – 10 người ngồi quây quần nghe chung. Cả người đọc lẫn người nghe
đều lấy làm thích thú lắm, nhiều bữa quên ăn. Mà sách ở đâu? Người ta mua trong
các phiên chợ Gò Chàm, Đập Đá, Cây Bông, Cảnh Hàng …. Sách do nhà Tín Đức thư
xã in, được các bà hàng xén, hàng cườm bày bán trên mẹt hàng, lẫn với tập vở,
manh giấy, vàng mã, cau ăn trầu…
Hát bội thường trực
trong đời sống của người quê tôi
Người
lâu ngày không xem hát thấy lòng trống trải khó chịu. Lâu không gặp đám hát
đình, hát đám thì họ tạo ra một hình thức “sân khấu” khác để được hát và xem
hát cho đỡ ghiền, đỡ nhớ. Đêm hè trời nóng, muỗi vo ve, không ngủ được, cả xóm
tụ lại nơi một nhà nào đó, chủ nhà đốt đèn lên, sắm nước trà, ngả mấy chiếc
nong ra giữa sân làm “sân khấu”, thế là diễn ra cuộc hát. Ông bà nào hát hay,
hay hát lần lượt tự nguyện bước ra nong hát: nam, khách, tẩu, lý mọi … kèm theo
điệu bộ, tuồng gì cũng được. Ai hát cứ hát, ai ngồi nghe cứ nghe, rồi uống nước
trà, rồi kèn trống miệng inh ỏi đệm cho câu hát thêm hay. Đêm dần trôi về
khuya, “đêm hát” thêm mùi mẫn, cho đến khi sương đêm sa xuống nhiều mới chịu
vãn hát, rồi mạnh ai nấy về nhà ngủ. “Sân khấu” kiểu ấy xuất hiện mọi lúc, mọi
nơi. Thợ gặt xế trưa ra đồng ngồi chờ cuốn lúa – hát; người nhàn rỗi tránh cái
nóng trưa hè, ra ngõ có bóng tre trùm mát ngồi hóng gió – hát …. Trong đám cưới
ngày nay, ít đám thiếu tiết mục hát bội góp vui; trong các lớp tập huấn, hội thảo,
cán bộ người quê tôi vẫn góp vui vài trích đoạn hoặc vài câu nam, khách trong
giờ giải lao. Tôi thường thắc mắc, không biết tại sao có câu ca dao :
“Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi
quyền”
Lại
không có câu ca dao tương tự để “ca” Bình Định về hát bội.
Bình
Định “mạnh” về khán giả hát bội, đồng thời cũng “mạnh” về đào kép hát hay nổi
tiếng. Ngay từ hồi tóc để chỏm, đám hát ở đâu cũng chỉ được phép ngồi xếp bằng
dưới đất mà xem, tôi đã nghe người lớn nhắc nhiều đến các tên tuổi Chánh ca Đựng,
Bầu Nhưng, Cửu Vị... với tất cả lòng ngưỡng mộ. Khi lớn lên, tôi được nhiều dịp
mục kích tài nghệ của các kép hát Hoàng Chinh, Long Trọng, Tư Cá... các đào hát
Ngọc Cầm, Mộng Thu, Lệ Suyền…Các bà, các cô “mê” đào kép hát hay, đã không
giấu:
Cửu Vị đóng Lý Phụng Đình
Dù chồng có đánh thì mình
cũng đi
Nói ra thì chuyện cũng kỳ
Hoàng Chinh đóng kép thì
mình mê ngay
Ngày
nay, hát bội ít diễn, ít khán giả… Ở đất có Nhà hát tuồng Đào Tấn này, việc chấn
hưng hát bội cũng không hề dễ. Mấy năm nay, nhiều làng quê tổ chức hát bội sau
Tết Nguyên Đán để cúng Thanh minh, cúng kỳ yên (cầu sự an vui) hơn là để phục vụ
nhu cầu xem hát của trẻ, già, trai, gái trong làng như hồi xưa.
Huỳnh Kim Bửu
Cố GS. TH QuangTrung
BinhKhe
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét