Sinh thời cha mẹ tôi rất mê tuồng. Đêm
xuống là ông mắc võng ở hiên hè, bà nhắc chõng ra sân, cứ nằm mà hát. Ngoài tuồng
ra, mẹ tôi còn thuộc nhiều truyện thơ nôm thế kỷ 19. Trước khi cắp sách đến trường,
tôi được mẹ dạy xong phần đánh vần và chính tả. Đánh vần bằng thơ Lục Vân Tiên,
thơ Kiển Tiên Chàng Nhái. Còn chuyện chính tả là đầu dây mối nhợ của truyện
nhỏ này .
Cách đây không lâu, khi sắp xếp lại tủ
sách cũ, tôi vô tình tìm thấy những bài tập chính tả của mình ngày ấy được cuốn
chung trong số vở tuồng do cha tôi chép. Đọc lại những bài tập viết ấy mới hay
đây là câu chuyện tình khá lý thú, có liên quan đến đất đai sông núi quê tôi .
Mẹ tôi đã ngắt truyện ra từng đoạn để đọc cho tôi chép . Nhiều đoạn có cả lời
răn bảo tôi , hoặc lời bình truyện của mẹ tôi, mà hồi ấy tôi cứ chép hết vào ,
vì đâu biết đâu là chính truyện, đâu là lời của mẹ . Cốt yếu , mẹ tôi đọc cho
tôi tập chép , nên chẳng có việc xem xét lại. Lúc bấy giờ tôi chép sai sót quá
nhiều . Vừa qua phải tốn nhiều thời gian suy đoán để bổ sung vào những chỗ thiếu
ấy . Chuyện không có đầu đề . Xin tạm đặt là “ NHỮNG BÀI TẬP VIẾT CỦA TÔI “ . Và lời mẹ tôi thì đưa vào ngoặc,
để chuyện đọc được liên tục .
1.
Phía tây núi Nung là phía mặt trời lặn . Là rừng Mua Thượng
. Đất đen lại cằn. Vợ chồng ông Rua phải dùng cây chọc lỗ để trỉa lúa .
Cơm ăn không đủ , con Ngần khóc suốt .Thằng Nĩnh anh
nó dỗ không nín. Dì Xìng, dì nó, dỗ không nín . Bà Rua dỗ cũng không nín.
Lũ chim Via, chim Liu trên núi Nung nghe tiếng khóc,
bay xuống thử . Mới hay đất rừng Mua Thượng không cho con người đủ cơm ăn. Liền
bay đến suối Thậm Thờ hút nước về nhả ướt rẫy ông Rua . Rồi đi nhặt thóc đổ ở
những đồng khác đem về trỉa ở đất Rừng Mua thượng. Lúa Rừng Mua Thượng là lúa
đen - Cả vỏ lẫn hạt đều đen.
Đủ cơm ăn, lại được lũ chim ru hát , con Ngần lớn như
thổi .
Thằng Nĩnh cứ khen nó có đôi mắt sáng như chim Via , với
giọng nói hay như chim Liu . Còn dì Xìng thì bảo lớn lên nó có chồng sang. Con
Ngần chẳng hiểu chồng sang là sao , đi hỏi cha .
Ông Rua rất vui , vì đã đủ cơm ăn lại có lũ con xinh đẹp
.
Thấy làm lúa đen được, dân quanh vùng lần lượt kéo tới
Rừng Mua Thượng . Rồi tôn ông Rua làm chủ làng Dầm .
(Con đừng hỏi . Vì mẹ chỉ nghe bà ngoại con kể phía
Tây núi Nung ngày xưa có làng Dầm) .
Tới mùa gặt, dân làng Dầm lại trích nửa lúa để đãi
chim.
Nhưng chim đâu ăn thóc.
Lúa đãi chim cứ để trên đồng, lớp này chồng lên lớp
kia.
Cám động lòng người, lũ chim kéo hết xuống đồng, hái
lúa giúp .
Từ đó dân làng Dầm không còn lo việc trồng trỉa với thu
gặt. Một năm làm mười năm ăn không hết.
2.
Ông Rua nói :
Đất ở phải có thần. Làm người phải có đạo.
Lập tức, dân làng Dầm kéo hết lên núi Nung, chặt cây về
cất đình.
Ông Rua bảo phải chọn cây lớn nhất mà chặt. Cây lớn nhất
trên núi Nung là cây Bưa, có ngàn năm tuổi. Tàng lá Bưa rợp hết núi Nung. Thân
của Bưa trăm người ôm không xuể . Còn rễ Bưa ăn sâu tới hơn ngàn trượng . Phải
mất mười tám năm mới chặt xong cây Bưa .
Ông Rua nói
- Làng Dầm ta thờ thần Núi Đen . Từ đây đến đó xa mấy
đời người. Nhưng ai không tội lỗi sẽ được về nơi đó .
Lập tức , dân làng Dầm xây đình Dầm theo đúng ý của
ông .
Có cả thảy một trăm cây cột. Một trăm cửa ra vào.
Ông Rua hỏi :
- Có phải cột là chân tay của thần ? Cửa ra vào là mắt
thần ?
Cả làng đáp :
- Phải .
Có cả thảy một ngàn chiếc trống. Mươi ngàn cái chày.
Trống là gốc Bưa đẽo ra. Chày là cành Bưa cắt ra.
Ông Rua hỏi :
- Có phải tiếng trống là tiếng của thần ? Mười ngàn
chày là để mười ngàn dân làng Dầm kêu cứu thần ?
Cả làng đều đáp :
- Phải .
Mười ngàn dân là tính lúc kéo đi chặt Bưa . Còn lúc đó
thì nhiều nhà đã thêm con đỏ.
3.
Phía đông núi Nung là phía mặt trời mọc . Là Rừng Mua
Hạ. Đất trắng, lại cằn . Chỉ trồng được sắn.
Nghe tiếng kêu vang núi vang rừng , ông Hốt dừng
cày , hỏi :
- Nó là con gì ?
Bà Hốt ngơ ngác. Đuồng cũng ngơ ngác. Chỉ có Noan là
hơi hiểu. Anh cất sáo lá, đi mất nửa ngày, về, nói :
- Trống đình Dầm . Với lại làm bằng gỗ Bưa .
Ông Hốt đâu biết gỗ Bưa. Cũng chẳng để tâm chi tiếng
trống. Cả ba lại tiếp tục cày .
Chỉ có Noan là hơi khác. Anh thơ thẩn trong Rừng Mua Hạ
suốt mấy ngày.
Ông Hốt hỏi :
- Sao con không thổi sáo ?
Bà Hốt cũng hỏi :
- Không còn là Noan của mẹ sao ?
Noan không đáp. Bỡi trong đầu anh cứ thấy mắt chim Via
với tiếng hót chim Liu .
4.
Ông Hốt không còn kéo cày nổi. Bà Hốt cũng không còn
kéo nổi. Cả Đuồng cũng kéo không nổi. Đuồng không đau trong lòng như ông bà Hốt.
Nhưng hai người ấy đã cưu mang Đuồng . Đã cho Đuồng ăn cơm mặc áo để sống được ở
Rừng Mua Hạ. Giờ ông bà Hốt buồn đau, không kéo cày nổi , tất, Đuồng cũng buồn
đau không thể kéo cày .
- Nó đi đâu ?
Ông Hốt quát hỏi, nước mắt mờ hai con mắt.
Bà Hốt cũng khóc.
Noan đi làng Dầm gặp ai, chỉ mỗi anh biết. Trở về mặt
mày không còn ủ rũ như trước .
- Cứ tưởng ta đã chết mất .
Ông Hốt mừng, nói.
- Mẹ vẫn còn nghe tiếng sáo của con sao ?
Bà Hốt cũng mừng nói .
Tức thời, Noan ngậm sáo lá. Thổi suốt ba ngày đêm.
Không ăn cơm , uống nước. Noan cứ thấy sợ . Bỡi lúc thổi sáo, tai chẳng nghe tiếng
sáo , mà chỉ nghe tiếng hót của chim Via chim Liu .
Ông Hốt bỏ trốn. Bà Hốt cũng bỏ trốn. Cả Đuồng cũng trốn.
Nhưng đâu phải . Lũ gấu trắng trên núi Nung kéo xuống là để nghe tiếng sáo .
Noan thổi.
Lũ gấu vây kín chung quanh .
5.
Đất Rừng Mua Hạ là đất cằn. Con người kéo cày suốt
ngày đêm vẫn chẳng đủ miếng ăn.
Ông Hốt bảo :
- Giờ ta với Đuồng lên núi.
Đi năm mươi ngày đêm , hai người đẽo được năm mươi chiếc
cày .
Bà Hốt bảo lũ gấu :
- Năm mươi con kéo năm mươi chiếc cày. Năm mươi con
còn lại lo trồng sắn , đào sắn .
Chẳng bao lâu lũ gấu cày hết đất Rừng Mua Hạ . Sắn lớp
lên xanh, lớp có củ.
Ông Hốt bảo :
- Chín phần rưỡi cho gấu. Chỉ để nửa phần cho ta .
Lũ gấu chạy trắng núi trắng rừng vì vui sướng.
Nghe lũ gấu đến kéo cày cho người , dân tứ phía đổ về
Rừng Mua Hạ . Nhà ở mỗi ngày một thêm . Người đẻ mỗi ngày mỗi đông.
Noan vẫn ngậm sáo lá .
Lũ gấu vẫn tiếp tục cày đất sắn cho người.
Một ngày kia ông Hốt nói :
- Đây là làng Dúc, các người nghe chưa ?
Mọi người đều lập lại.
- Đây là làng Dúc .
Rồi tôn ông lên làm chủ.
(Con đừng hỏi. Vì mẹ chỉ nghe bà ngoại con kể, phía
đông núi Nung ngày xưa có làng Dúc).
6.
Bà Hốt là người to khoẻ , rất thoả lòng với vẻ đẹp
khác thường của chồng.
Đầu ông Hốt là đầu dẹp. Mắt ông Hốt là mắt dọc. Đầu dẹp
thì đốt đuốc tìm khắp làng chẳng thấy. Nói chi mắt dọc .
Ông Hốt ngó tới không quá mươi thước. Ngó ngang không
được. Chỉ cúi xuống để thấy đất Và ngước
lên để trông trời. Về chuyện này bà Hốt đã nói với chồng :
- Phía Tây là núi che khuất . Ba bề còn lại là đất nước
của người khác . Mắt có nhìn xa được cũng chẳng ích chi .
Nhưng ông Hốt chẳng yên lòng về làng Dúc của mình . Đất
Rừng Mua Hạ là đất sắn. Nhà nào cũng ao ước có chén cơm.
- Không được .
Đang trò chuyện với vợ, ông Hốt quát . Bà Hốt rất lo.
Ông Hốt nói :
- Sẽ chạy qua bên làng Dầm hết .
Bà Hốt hỏi :
- Ai qua làng Dầm ?
- Ăn sắn miết cũng thèm cơm, chứ ai
.
- Biết rồi. Để nghĩ thử . Bà Hốt ngó thẳng vô mắt chồng
rồi tiếp :
- Chỉ còn chui xuống đất. Với bay lên trời .
- Phải. Ta cũng đã nghĩ được.
Nghe tiếng cười của ông Hốt, lũ gấu tháo cày chạy hoảng
loạn.
7.
Ông Hốt nói :
- Rào phải cao ngàn trượng. Hào phải sâu trăm trượng .
Cả làng lẳng lặng kéo lên núi Nung . Cả gỗ lim gỗ trắc
. Cả cây lớn cây bé. Phải chặt hết cây của núi Nung mới đủ rào làng Dúc .
Lũ gấu lại phải kéo sang nửa núi bên kia.
Chẳng còn nghe tiếng sáo lá của Noan. Cả làng lại đi
kéo cày, trồng sắn. Noan cũng đi kéo cày.
- Nó lớn rồi . Không thể ăn chơi mãi.
Ông Hốt nói .
- Phải. Không thể ngồi không, để kẻ khác làm cho ăn .
Bà Hốt cũng nói .
Ngày đi kéo cày. Đêm đi đào đất. Phải mất mười năm mới
đào xong hào làng Dúc .
Ông Hốt nói :
- Nước phải đầy hào.
Bà Hốt nói thêm :
- Với ngàn con rắn thả vào nước nữa .
Cả làng lại lẳng lặng kéo đi tìm trái Sua để làm gáo
múc .
Nhưng nước đâu để đổ cho đầy hào ?
Lại phải đào nữa . Cho tới lúc thấy được mạch nước ,
thì dân làng Dúc chỉ còn phân nửa .
Đem được ngàn con rắn trên núi Nung về, lại mất thêm nửa
số còn lại .
Có rào cao rồi. Có hào sâu rồi . Hào sâu lại có nước,
có rắn .
Ông Hốt nói :
- Ai ra khỏi làng, Đuồng phải biết .
Đuồng là người giữ cửa .
Làng Dúc chỉ có mỗi cửa ra vào. Chỉ có Noan ra vào Đuồng
mới không dám ngăn .
(Còn tiếp…)
Nguyễn Thanh Hiện
Cựu GS. TH Quang Trung Bình Khê
Phía Tây làng Dầm-Vua Rua-Núi Đen-Núi Nung
Trả lờiXóaĐất Đen trồng lúa-Rừng Mua Thượng-Gỗ Bưa làm Trống
Phía Đông làng Dúc-Vua Hốt-Núi Trắng
Đất Trắng trồng Sắn-Rừng Mua Hạ-Gỗ Lim làm rào-
Hào sâu có rắn!
Đông Tây Mặt Trời Mọc Lặn
Hai Ông Thần Núi Đen Trắng Hốt Rua
Tiếng sáo lá Noan nhung nhớ..
Đuồng-Người giữ cửa đứng giữa hai làng....
Câu truyện Thần Thoại mở trang..
Cao nguyên Rừng Núi vô vàn hiển linh...