Quê tôi, làng Nguyệt Áng (*), một làng nhỏ ở miền
Trung. Cách làng một quãng đồng, phía nam, có một ngôi chùa nhỏ. Cửa chùa mở về
hướng tây, nhìn về Thần Đinh, ngọn núi linh thiêng thuộc dãy Trường Sơn.
Ngôi chùa làng tôi có tự bao giờ tôi không biết,
bố mẹ tôi không biết, ông bà tôi cũng không biết. Chùa nằm giữa đồng vắng, bốn
bề nắng gió. Lên năm, sáu tuổi, tôi vẫn chưa một lần vào chùa nhưng tôi cảm nhận
được qua tiếng chuông, qua lời mẹ tôi. Khi gà gáy phiên cuối, tôi còn mơ ngủ, mẹ
tôi chuẩn bị gồng gánh đi chợ Cổ Hiền*, bố tôi pha ấm trà đặc trầm ngâm nhìn
ánh trăng hạ tuần chiếu qua khe cửa là lúc tiếng chuông thức giấc. Tiếng
“boong, boong” thả vào khoảng không mờ đục, xuyên qua làn sương sớm, lay động
giọt trăng đậu trên cành lá. Tiếng ngân dài lan xa, rất xa rồi chìm vào tiếng
sóng của dòng Kiến Giang* có mái chèo khua nhẹ, xuôi theo tiếng gió tràn qua
phá Hạc Hải* mênh mông. Tiếng ngân như tiếng hò khoan, lúc thưa lúc nhặt, như
tiếng lúa hát, như lời mây bay. Tiếng chuông đưa mùi hương cốm ai giã sớm, bay
xa, hòa vào tiếng dế ríu ran thành bản nhạc. Tiếng chuông như bàn tay chị nhẹ
nhàng đánh thức giấc ngủ vùi. Tiếng chuông dìu mặt trăng xuống núi, nâng mặt trời
từ biển lên, một ngày mới bắt đầu.
Mẹ tôi không theo đạo Phật, tôi đoán thế, vì
bàn thờ không treo ảnh Phật Bà Quan Âm, nhưng ngày rằm, mồng một bà vẫn thường
ăn chay. Rằm tháng bảy, nghe tiếng chuông lúc trầm lúc bỗng, mẹ tôi bảo đó là
ngày người dương thế gặp người cõi âm nên tiếng chuông cũng vậy. Tiếng trầm là
âm thế, tiếng bỗng là trần gian. Khi tiếng chuông nằm lại, cũng là lúc những
nén nhang đã tàn. Mẹ tôi rắc gạo muối quanh vườn và cầu khấn. Mẹ nói là cầu
mong có chốn lưu thân cho những âm hồn phiêu bạt.
Tôi lớn lên trong tiếng chuông chùa, sự vật đổi
thay, tiếng chuông cũng khác. Năm đói kém, tiếng chuông buồn thao thiết như cố
làm đầy chén cơm vơi nửa của tôi. Mùa lạnh giá, tôi run cầm cập đến trường, tiếng
chuông ngắn lại như áp vào tấm lưng nhỏ bé ngọn lửa ấm. Mùa lũ lụt, tiếng
chuông đục ngầu trôi nổi lênh đênh…
Tôi thường theo mẹ lên thăm cô tôi ở thôn Trường
Dục*, con đường mòn nhỏ đi qua trước cửa chùa. Cách vài chục bước, tôi thấy mẹ
thường chỉnh lại áo quần, cất nón trên đầu và nhắc tôi im lặng. Mẹ tôi bảo
để cho phật tịnh tâm cõi Niết Bàn.
Lần đầu tôi sợ hãi khi thấy trước cổng tam
quan những ông Hổ nhe răng, vuốt móng, những Quan hàm én cầm búa cầm đao. Mẹ bảo,
các ông ấy dữ nhưng là dữ với cái ác, che chở cái hiền. Phật ở trong tâm, mình
làm điều lành phật thì phù hộ, trời cao thấy hết chúng sinh.
Năm tháng đi qua, tôi đã là niên thiếu, mẹ
tôi thành người cõi âm. Một mình lên thăm cô tôi, nghe lời mẹ, tôi xõa quần,
cách dép và lặng lẽ khi đi qua cửa chùa. Những lúc trời tối, tôi không sợ vì có
ông Hổ, ông Quan che chở cho mình.
Vài năm sau, phong trào chống mê tín dị đoan
rầm rộ, cúng tế thưa dần và tiếng chuông chùa cũng tắt lịm. Một đêm, trăng sáng
đến nỗi tôi không nhìn thấy trời, trời chỉ là bóng đen u uất. Bọn trẻ xúm nhau
nhỏ to gì đó rồi chạy về phía chùa, tôi chạy theo. Đến nơi, tôi chen qua đám
đông và lẫn vào trong. Lần đầu tiên trong đời tôi được vào chùa. Chỉ có mấy năm
vắng tiếng chuông mà ngôi chùa như nhà hoang, mái ngói hở ra từng mảng, ánh trăng
rách rát chảy xuống rưng rức vỡ tan dưới nền nhà loang lổ. Những ông Phật già
nua, ốm o lưng trần lạnh lẽo, mặt đầy bụi, mắt ngấn lệ. Những ông Phật áo xống
tả tơi chau mày đau khổ như gánh hết cơ cực của nhân gian. Phía góc xa, chân
hương gió bạt. Ở chính điện nước mưa đọng vũng bệ thờ.
Người ta đưa phật đi về phía Bình Thôn, ở đó
cũng có một ngôi chùa.
Tôi không biết vì sao đêm ấy trăng sáng đến
thế. Trăng sáng để soi rõ mặt người, tôi nghĩ thế.
Tôi nhớ lời mẹ dặn “trời cao thấy hết chúng
sinh”.
Vài ngày sau, dân quân súng ống, cuốc xẻng đập
chùa một cách rầm rộ, họ san bằng như bom phá. Ông Hổ, ông Quan dưới tay họ lặng
lẽ đầu hàng và tan tác từng mảnh.
Người ta xây trên nền chùa một lò gạch,
do có nền cao không bị ngập lụt.
Mỗi lần tôi lên thăm cô tôi, trời tối không
còn ông Hổ, ông Quan che chở, tôi sợ hãi cắm cổ chạy thật nhanh.
Lớn lên. Xa làng. Về quê, tôi trở lại thăm
nơi chùa cũ. Trong tiếng còi inh ỏi, tiếng nhạc xập xình giữa khu dân cư ồn ào
náo nhiệt. Trên nền đất, trong phế tích vẫn còn hồn xưa nếp cũ, cỏ vẫn xanh rì
mải miết như cố níu lại hơi ấm chân người qua đây một thuở có còn không?
Tôi cởi giày, bỏ mũ, lặng im như lời mẹ dặn
thuở nào. Những hồi chuông dội vào hồn tôi, từng hồi, từng hồi mừng rỡ như gặp
lại người xưa, như nức nở sẽ chia những oan ức nghiệt ngã. Tiếng gươm đao, tiếng
hổ gầm giữa thời loạn lạc. Tiếng kinh cầu râm ran trong khói hương huyền ảo, tiếng
đất dậy sóng một thời. Trong tiếng kinh cầu đó có tiếng sám hối của những người
đập chùa hay không ???
Cũng vầng trăng đó, cũng bầu trời đây, thiếu
tiếng chuông chùa thế gian như cô đơn, như đời tôi vắng mẹ. Rằm tháng bảy, có
còn ai vẩy gạo muối trong vườn để những âm hồn trẻ thơ đỡ phần hờn tủi.
Mấy chục năm rồi, đau đáu trong tôi câu
hỏi, những ông Phật giờ lưu lạc nơi nao???
Bỗng vang lên thong thả tiếng chuông
chùa và câu hát ru văng vẳng đâu đây:
Ru ru riến riến rà rà
Voi ông đi trước ngựa bà đi sau
Đi sau lủng lẳng con cau
Ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng
Cõi Niết Bàn là nơi cực lạc. Với tôi, tuổi
thơ cơ cực nhưng cám ơn đời đã cho tôi đã gặp cõi Niết Bàn.
Nha Trang - 2013
Từ Sâm
Cây bút của Quán văn
(*) thuộc Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình
Tôi thích bài này.
Trả lờiXóa