Hôm
nay 13.09. năm Quý Tị, ngày tuần đại tường của Thầy Nguyễn Đình Lương. Thắp nén nhang tưởng nhớ đến
Thầy. QuangTrung BinhKhe đăng lại một bài viết về những kỳ dị của đất Tây Sơn,
những nhân vật kỳ dị trong đó có Thầy của chúng ta. Bài của Trung Việt, viết
trên báo Tiền Phong tự hồi 26.04. 2009
* * *
TÂY SƠN KỲ DỊ
Tây
Sơn - mảnh đất oai hùng một thuở vang tiếng với những hào kiệt lẫy lừng đến nay
vẫn còn không ít kỳ nhân mà nhờ những cơ may trong đời, trong nghề, tôi đã được
quen, được thân hoặc nghe những huyền tích về họ ...
“Nhân
có thằng Quảng Nam vào, ta mổ con nghé,
làm tô dé nhậu chơi”. Giọng Tư Lương vang lên, cả bàn cười to. Dé là đoạn ruột
non của con nghé, bỏ vào nồi nấu chung với lá giang, rau tập tàng, sùng sục
sôi, chua chua, bùi bùi, đăng đắng, gắp
một miếng, tợp một ly Bầu Đá chính hiệu, trời mùa hè mà trong người như sông
Côn mùa lũ.
Thay
vì phải hạ con nghé, anh em dẫn tôi vào quán “hai sống một chín” gần ngã ba
sông Côn, sát cây cầu bắc qua sông. Hai bánh tráng sống, kẹp giữa một bánh
tráng đã nướng chín, trải ra, bỏ trong đó là một quả trứng vịt, một xiên thịt
nướng, rau sống, hai - ba cuốn "chả ram", một lát đậu khuôn to chiên giòn, xong, bẻ hai đầu vào như gói bánh tét, cuốn lại. Nó
không còn là cái bánh nữa mà như cái
chày.
Mỗi
người một cái, chấm nước mắm. Sức tôi chỉ đủ nuốt trôi một cái, cứng bụng. Anh
em bảo: “Thứ này chỉ có ở Tây Sơn. Ngày trước khi khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, nó
là thức ăn của những lục lâm thảo khấu ở Trường Trầu, vốn ưa thứ gì làm nhanh
mà mau no”.
Tôi
đọc qua lịch quay phim “Tây Sơn hào kiệt”, thấy có phân cảnh chuẩn bị 60 sọt đựng
bánh tráng để nghĩa quân làm lương thực trên đường đánh ra Bắc. Bánh tráng, thức
ăn muôn đời.
Bốn
năm trước, tôi ghé Tây Sơn thăm ông Tư Lương, lần này quay lại, xem ra ông già
vẫn vậy, nhưng có khác một tí “tao bị tăng xông, không uống được”. Anh Trần Viết
Dũng bảo, ổng là… Cái gì vật chứ nhân vật chi ổng, ai mà chịu cho thấu. Tôi nói
“Anh coi bộ về già cũng như ổng thôi”.
Anh
Dũng làm thơ, bảo “không làm nữa, thơ cách tân chạy theo mệt quá”. Nuôi bò, ong, mở quán cà phê, bây giờ chuyển
sang nấu rượu. “Rượu tao không đụng hàng. Bầu Đá ngâm với ong toàn tính, uống
ngon, không đau đầu, năm ngoái nhà thơ Nguyễn Duy qua đây, bảo “thiên hạ đệ nhất
rượu”. Tau chế được 13 thứ rượu rồi, sẽ
ráng lên cho đủ “thập bát ban võ nghệ”. Dân miền tây khoái rượu này lắm. Đó là
thứ rẻ nhất hiện nay, nhưng đảm bảo chất lượng, không có chuyện bậy bạ, nhiễm độc
đâu. Miền Trung và Tây Nguyên rồi đây tau tính đường ‘phủ sóng”.
Căn
nhà nhỏ, thấp và ám đen cũ mèm nằm trên đường Quang Trung của thị trấn Phú
Phong. Vẫn la liệt gốm Gò Sành. Mấy bức tranh. Tủ sách cũ. Hai dãy bàn học trò.
Cây cảnh. Ông Tư Lương đang nằm đọc báo Văn nghệ. Nhà chỉ có hai vợ chồng già.
“Còn làm thơ không chú ?”. “Còn. Càng ngày làm càng dở. Mà sao lạ quá mày, “bia
rượu nhiều nóng người, hãy uống trà Dr Thanh” mà tụi nó hát cũng được, thơ
trong nhạc, nhạc trong thơ à?”.
Năm
đó ông bảo “thơ tau, đủ trả tiền điện”.
Gom hết lại, ông ra tập “Cỏ lấm bụi đường”, giọng của người lúc như sống đủ,
lúc như ngơ ngác ở đời: “Một sân một chiếu một chai - Một mình một bóng lai rai
một chiều - Uống say quăng chén nằm queo - Mất người mất bóng mất chiều mất
chai” (Rượu chiều); “Lên chùa con có đốt nhang - Cúng dường Bồ tát Vu lan rằm
này - Chắp tay kính bạch sư thầy - Làm sao nghe được tiếng chày nện chuông”
(Lên chùa lễ Phật).
Tầm
này, học trò chắc cũng mới vừa tan học. Sáng, ông dạy Anh văn, sau khi đã bán cà phê đến 8 giờ. Chiều dạy con nít lớp
1. Ông bị thương, hư một mắt, nhưng nạt
bọn con nít “ngày xưa tao lười học, bị thầy đâm thủng một mắt, tụi mày coi đó mà
học”.
Phụ
huynh quanh vùng quý ông, ai cũng thích gởi con. Nhưng ông xuất thân không phải
là giáo viên, mà là hoạ sĩ trình bày báo Bình Định. Trước 1975, tranh của ông
đã 3 lần làm bìa cho tạp chí Văn nổi tiếng. Bà vợ buôn bán vặt. Con gái ông là
Nguyễn Thị Tố Trân, là tiến sĩ nông học đầu tiên của tỉnh Bình Định. Đứa con
trai sau là kiến trúc sư.
“Mọi
chuyện rồi cũng qua hết, mày ơi”. Ông cười hào sảng, như không cần thuật lại những
ngày tháng cực nhọc nuôi con, dẫn tôi đến trước bức tranh vừa vẽ. “Thằng cháu
tuổi Hợi, cưới con vợ tuổi Sửu, tao chẳng có gì làm quà, cho nó tiền thì cũng
tiêu hết, nên vẽ bức tranh lợn cưỡi trâu, tặng chơi”.
“Chơi
dzậy mới chơi”, anh Dũng đế vào. “Tao nghĩ, đất Tây Sơn chủ yếu là chơi thôi mà
chơi là chơi ngon nghen. Chúng mày nhớ chuyện Tản Đà đi thăm Bình Định năm
1936, nghe con hát tuồng ở rạp Phú Phong tại đây hát hay, bèn thưởng tiền
không?
Ông
nội tao là chủ rạp hát đó. Rồi ổng đi thăm đình Tây Sơn ở làng Kiên Mỹ, bị xã bắt
vì không biết Tản Đà là ai, dẫn lên quan huyện, mà quan huyện là bạn ổng, cũng
tại vùng này. Ăn uống kiểu đây cũng là cách chơi không giống ai.
Tây
Sơn cục mịch lắm, văn vẻ có gì đâu, may mà đẻ ra ông nhà văn Nguyễn Mộng Giác.
Tao mà dị kỳ cái gì, tụi mày sang hỏi ông già Mười, ổng kể chuyện “tề gia” cho
mà nghe, thằng cha đó mới “độc nhất vô nhị”.
Ông
Mười lớn hơn ông Tư Lương mấy tuổi, nhà cũng gần đó, kể: “Có ông tên Giá, tuổi
ông già tao, thiệt lạ, nhà ổng xài toàn đồ tre, từ cái vá múc cơm đến đôi dép,
tre hết. Vườn nhà ổng, sạch như lau. Cây cối trong vườn đủ loại, nhưng khi thu
hoạch, mỗi thứ đều có một lọ đựng tiền bằng tre, để riêng, không lẫn lộn.
Ông
này tuyệt đối không đi ăn đám chạp, kỵ, giỗ ở đâu. Nếu làng có việc, ông sai
con đến xem người ta đi đám bao nhiêu tiền, về báo lại, ổng đưa tiền ra, sai
con đến gởi và thưa “ba tôi bị đau”. Bữa
ăn, mỗi người chỉ ăn 2 chén. Vườn, sai 3 con trai thay phiên nhau đuổi gà, đứa nào để gà phá gãy một cây, là bị trừ nửa chén
cơm. Nhưng chuyện đi tiêu nhà ổng mới độc.
Không
có cầu tiêu, cầu xí gì hết, cứ ra vườn mà đào hục, xong, lấp lại, nhưng phải thẳng
hàng, không lung tung, bằng cách ông cho giăng một dây thẳng, cứ thế mà lần lượt.
Chẳng hiểu được.
Ổng
đi cày, thằng con dắt bò, vợ vác cày, ổng mặc bộ đồ trắng, tay cầm roi và một
bình nước, gói theo miếng bánh dầu nướng chín và ít muối. Đến ruộng, cởi đồ ra,
gấp lại, cày xong, vợ con đến lùa bò và vác cày về, ông ăn xong miếng bánh, mặc
đồ vào, lại như đi chơi.
Vợ
làm trái ý, tối, ổng lấy roi cày đánh vợ, nhưng cấm vợ kêu la vì hàng xóm sẽ biết, con cái không ngủ được,
sáng ra vợ bảo con xắn áo lên, xoa dầu, con ngạc nhiên vì sao, bà bảo đêm qua
ba mày đánh tao.
Nhà
ông có 6 người thì có 6 cái vỉ đập ruồi, hễ ăn cơm có con ruồi bay qua là đồng
loạt 6 cái vỉ vung lên, ruồi nào thoát được. Có người hàng xóm biết ông kỹ
tính, bèn sai con qua mua nửa quả cam. Ông gật, dẫn ra vườn, cắt nửa quả, còn nửa
quả lủng lẳng lên cành, lấy giấy bọc lại.
Thế
mà, lúc sắp mất, ổng sai con đến mời ông già tao, viết cho mấy chục bức thư, nội
dung như nhau, rằng tôi biết khi còn sống, tôi đã làm phật lòng nhiều người,
nay mong mọi người bỏ qua cho, xong sai con đi gởi quanh làng. Bà con gọi ông
là ông “tề gia”. Tề gia, tu thân kiểu này thì Khổng Tử sống dậy cũng phải chắp
tay gọi là cụ”.
Ông
Mười, lúc còn thanh niên cũng từng thượng đài đấu võ. “Chuyện võ Tây Sơn, nói cả
đời không hết. Tao cho rằng tinh hoa võ Tây Sơn đã mất đi 90 phần trăm rồi. Vì
sao? Ai học nấy biết, không dạy tràn
lan, rồi vì nó quá hiểm nên người ta không dám dạy, cha chưa chắc dạy cho con".
Thời
đó sao có nhiều người sức khỏe vô địch, võ nghệ siêu quần, giỏi đến mức không
tưởng tượng nổi. Có chuyện là ông kia biết mình đánh không hơn ông này vì mấy
đòn đá, bèn chọn đêm trăng sáng, mời đến nhà chơi, rượu vào, mời ra cùng ổng dzợt
mấy đường chơi. Dưới nền sân, ổng đã rải đầy tro. Đánh xong, sáng ra ổng xem kỹ
bước chân ông kia in dưới nền, từ đó nghĩ ra cách phá thế. Tài thật”.
Chúng
tôi xen vào: Khác nào chuyện Đoàn Dự đi “Lăng ba vi bộ” trong chưởng Kim Dung!
Ông Mười gật đầu: “Một thời đã qua rồi. Từ võ mới sinh ra nhiều chuyện kỳ lạ lắm.
Võ bây giờ ăn thua gì so với hồi đó, hai tay bốc hai người ném là chuyện thường.
Thế sự đổi thay, bây giờ tứ tung cả rồi…”.
Sông
Côn từ hạ đạo nhìn lên, chiều xuống, núi như đại đao in hẳn lên trời. Ở đó có mấy
ngọn Hoành Sơn, Nghiên Sơn, Bút Sơn. Hoành Sơn là chỗ táng mộ cha của anh
em Tây Sơn Tam Kiệt. Con sông đi qua những làng quê trung du bát ngát tiếng gà,
mà ven sông là những làng võ danh trấn: Thuận Truyền, An Thái, An Vinh, với những
võ sư mà tên tuổi nhuốm màu huyền thoại. Xóm làng cũng mang trong mình những
cái tên chân chất: Xóm bún, xóm giá, xóm đậu, trường trầu…
Bữa
tôi sang chiếc cầu cũ, hỏi một bà già đi chợ về, bà đáp “Ừ bên đó là quê ông Huệ”.
Những điều kỳ dị, tôn nghiêm, đã hóa thành điều bình thường trong tâm thức người
dân, những nông dân hiền lành, hào sảng.
Đi
qua thương hải tang điền, tâm thức của Tây Sơn một thời hào kiệt còn vang vọng
trong bao lớp người, nên khi đoàn làm phim Lý Huỳnh về đóng “Tây Sơn hào kiệt”,
đã nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của bà con nơi đây, như là ý nguyện muốn sống
lại chuyện xưa, giờ đang là như cổ vật buồn…
Trung Việt
Nguồn TienPhong Online
Cảm ơn Tác giả và QuangTrungBinhKhe nhiều về bài đăng này.
Trả lờiXóaBài viết thật hay. Ở Phước Hòa - Tuy Phước cũng có những chuyện tương tự về cách " tề gia" của các Cụ xưa. Không thể đem thời của các Cụ so với hiện nay được. Cuối cùng thì cũng chỉ thốt lên " Các Cụ ngày xưa dạy con cháu hay thật !"
Trả lờiXóa