Drop Down MenusCSS Drop Down MenuPure CSS Dropdown Menu
Trang Giao Lưu Cựu HS Trung Học Quang Trung Bình Khê - Bình Định

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

ÔNG ĐỒ - NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ


Năm nay hoa mai nở sớm, khắp phố phường không có sự náo nức, rộn ràng của những ngày cận Tết. Trong khi lục tìm ảnh của Tết Xưa, lại gặp được bức ảnh của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh … Bức ảnh này ông chụp ở Hà Nội năm 1940, vài năm sau khi nhà thơ Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ nổi tiếng “Ông Đồ Già” (1936).

Chợt thoáng nhớ đến Ông Đồ của Vũ Đình Liên ngày xưa với một chút ngậm ngùi ! Vũ Đình Liên có cô đơn không với những người muôn năm cũ !? Người muôn năm cũ, những con người độc hành với mực tàu giấy đỏ mà qua đường không ai hay, những con người đứng bên ngọn Tháp Chàm nghìn muôn năm xây hận một phương trời mà thương xót : chỉ còn Tháp Chàm thương nhớ nước Chàm thôi … Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ !


Tranh của Bùi Xuân Phái


ÔNG ĐỒ GIÀ

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay."

Nhưng mỗi năm mỗi vắng.
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy.
Ngoài trời mưa bụi bay.

Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Vũ Đình Liên (1936)

Ảnh của Võ An Ninh

Vũ Đình Liên (1913 - 1996), sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tú tài năm 1932, từng dạy học ở các trường: Trường Tư thục Thăng Long, Trường Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức. Ông học thêm trường Luật đỗ bằng cử nhân, về sau vào làm công chức ở Nha Thương chính (còn gọi là sở Đoan) Hà Nội.
Năm 1936, ông được biết đến với bài thơ "Ông Đồ" đăng trên báo Tinh Hoa. Sau 1945, ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

 Võ An Ninh (1907 - 2009), tên thật là Vũ An Tuyết, sinh tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Ông làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở Kiểm Lâm. Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất nước Bắc - Trung - Nam để chụp ảnh với cái camera của Đức hiệu Zeiss Ikon (1928).

Ở Hà Nội, ông có nhiều ảnh nổi tiếng gợi nhớ về Hà Nội của những ngày thanh lịch xa xưa: Trong vườn si đền Voi Phục (1942), Gió nồm (Đê sông Hồng, 1948), Nhớ xưa (1944), Bậc đá đền Voi Phục (1956), Chùa Láng (1941), Cụ đồ viết câu đối Tết (1940), Tranh Tết làng Hồ (1941), Phố Hàng Buồm (1940). Ở thành phố Saigon trong giai đoạn 1946-1950, ông có chụp nhiều ảnh trong đó có "Chợ Bến Thành và bến xe thổ mộ" (1949), “Cụ đồ viết câu đối Tết” (Saigon, 1950), "Lăng Ông ngày Tết" (1952)…

♣  Bùi Xuân Phái (1920 - 1988), quê gốc của ông là ở làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là thủ đô Hà Nội). Ông là một trong những họa sĩ thuộc thế hệ cuối cùng của sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cùng thời với các danh họa Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên - những tên tuổi ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ông chuyên về chất liệu sơn dầu, đam mê mảng đề tài phố cổ Hà Nội. Sinh thời, sáng tạo của ông đã được quần chúng mến mộ gọi dòng tranh này là Phố Phái..


Năm 1956-1957 Ông giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Hà Nội. Vì tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nên phải đi cải tạo lao động và thôi không được giảng dạy nữa. Năm 1957, khởi đầu cho dòng tranh Tết, danh họa vẽ một bức tranh ông đồ lấy ý tưởng từ bài thơ Ông Đồ nổi tiếng của nhà thơ Vũ Đình Liên. Bức tranh hoàn thành, có người bạn tên Trần Văn Lưu đến xem thấy thích quá, Bùi Xuân Phái tặng luôn. Sau đấy, nhà thơ Vũ Đình Liên có dịp đến chơi nhà ông Lưu, nhìn bức tranh Ông Đồ, nhà thơ giật mình, rồi vỗ đùi đánh đét: “Sao họa sĩ lột tả tinh thần bài thơ của tôi hơn cả tôi thế”.

Từ đó 2 người thành bạn. Nhà thơ Vũ Đình Liên muốn gây cảm hứng cho họa sĩ nên làm thêm ba bài thơ nữa đặt tên là Ông đồ 1,2,3 mang đến cho ông Phái vẽ. Từ đấy, Tết năm nào Bùi Xuân Phái cũng vẽ một bức về ông đồ theo trạng thái từng năm: ông đồ đắt hàng, ông đồ ế hàng, ông đồ say. Đến bài thơ Ông đồ thứ 4 (!?), thì họa sĩ không biết phải vẽ thế nào, nên quyết định chấm dứt việc vẽ tranh ông đồ và chuyển sang vẽ cành đào.

QuangTrung BinhKhe

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét