Lẫm chẫm biết đi, tôi níu áo mẹ đòi đi chợ. Mẹ
tôi bỏ tôi vào một đầu quang gánh và gánh cùng với khoai sắn, thóc, gạo… Lần đầu
trong đời tôi đi ra chợ đó là chợ Cộôc dân trong vùng thường gọi là chợ Trường
Dục hoặc chợ Cổ Hiền. Lên năm, sáu tuổi, tôi chạy lon ton theo mẹ, khi chân
không bước nổi, mẹ cho tôi lên thúng quảy đi.
Chợ Cổ Hiền nằm ở ngã ba giữa thôn Cổ Hiền và
Đồng Tư, xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Trước mặt chợ là bến
sông, thuyền ken dày đặc. Giữa chợ có hai cây đa cổ thụ như hai cột đình sừng sững
chống trời, tán xòa rộng như đám mây che nắng. Nhà Nguyễn xây lũy Trường Dục
vào khoảng năm 1630, cách chợ vài trăm mét. Nơi mua bán nông lương gần nơi tụ tập
quân sĩ, nếu chợ có từ đó thì cũng gần bốn trăm năm rồi.
Khi tiếng chuông chùa Bình Thôn thong thả nhỏ
giọt vào không gian tiếng boong boong nhẹ như giọt sương rơi vào cành lá lẫn
trong tiếng cầu kinh mơ màng trong bàng bạc khói sương. Khi vầng trăng khuyết gối
đầu lên đỉnh Thần Đinh, khi tiếng gà canh cuối vừa dứt, chợ bắt đầu họp.
Người Nguyệt Áng, Hữu Lộc, Bình Thôn phía
Đông ngược lên. Người Long Đại, Trường Sơn phía Tây đổ xuống. Người Trung Quán,
Hiển Lộc theo đò sang ngang.
Người Lộc Long, Kim Nại, Hoành Phổ theo hướng
Bắc đổ về. Như đàn kiến tha mồi về tổ. Chợ quê, đặc sản là khoai, đặc biệt là
khoai Nguyệt Áng, củ to, mập ú, bột nghẹn cổ. Sắn Vạn Ninh, củ dài thon như
cánh tay con gái, nõn nà, dẻo như kẹo kéo. Chanh Cổ Hiền trái to như trứng vịt,
xanh biếc mắt trời, mọng nước, vị chua thanh thoát, dịu dàng, mùi thơm tinh khiết.
Bắp Đồng Tư, lớn lên từ bãi bồi ngã ba sông Đại Giang, áo lót cồi màu xanh lơ mỏng
cánh chuồn chuồn, hạt tròn căng đều như răng con gái. Uống một bát nước râu bắp
ngọt như pha đường phèn, thấm vào cổ họng rồi đọng ở đó, xua tan cái rát bỏng của
gió Lào.
Mít Vạn Ninh, múi ươm màu mỡ gà, thơm nức.
Cua, rạm từ Hỏa Lò, Quảng Xá theo đò dọc đưa về, chất đầy oi, chen chúc như tổ
ong. Vào cuối tháng, khi ánh trăng yếu dần đi, cua rạm vào độ cứng, chắc nịch,
gạch vàng nghệ. Rau muống, rau cải, bầu, bí, cà… từ Lộc Long, Hoành Phổ, Đại
Phúc sau chuyến đường xa, ngồi nghỉ riêng một góc. Rau còn ngậm sương, chập chờn
run rẩy dưới làn mưa mỏng như khói, non tơ xanh ngắt. Muống nấu canh đam (cua đồng),
bầu nấu canh tép, cà um tỏi.., là phần thưởng tuyệt vời mà thiên nhiên dành cho
vùng đất nghèo khó.
Tôi nhớ, nép bên góc chợ là hàng bánh. Bánh
rán thơm lừng, bánh bột lọc trong vắt ôm con tôm co mình. Bánh sắn nhân đam hoặc
thịt ba chỉ, láng mỡ, dai, cắn ngập chân răng. Bánh đúc mọc đầy lạc, núng nính,
nằm tròn trịa trên mủng, phía dưới lót là chuối, xắn từng khúc dày dặn, bỏ lên
đĩa, chan muỗng nước chấm chua ngọt, chưa ăn đã no. Rẽ qua hàng bánh, đồng tiền
ngọ nguậy trong túi, vì cái bụng bắt đầu réo gọi, mắt thèm khát, nước miếng ứa
ra, chân bước mà đầu còn ngoái lại, thế nào mẹ cũng cho vài xu để tôi thưởng thức
của ngon vật lạ.
Bỗng đâu mọc lên một ông già mặc áo dài thâm
nâu ngồi trước cửa chợ. Ông già đến trễ hơn các hàng xén. Bu quanh ông là cầu vồng
bảy sắc, là chong chóng, là tò he. Lũ trẻ chúng tôi chỉ chờ trong vài ba phút
là có một ông voi, ông ngựa, có cả lính hầu màu xanh đỏ với giá vài xu. Về nhà
ngắm nghía, khoe mẽ với bạn bè chán chê rồi ôm chúng ngủ vùi trong giấc đông lạnh
lẽo. Khi tỉnh dậy, ông voi mất vòi, ông lính mất đao,…và chúng tôi làm thịt các
ông bằng miệng.
Những năm chiến tranh phá hoại, chợ dời về
thành Lũy. Nấp trong bụi có dây leo ken dày là quán lá đơn sơ được làm vài cọc
rào thưa thớt bằng tre phía trên đội vài miếng vải bố rách như cờ phướn trong
trận gió. Chợ nằm trên đường đi. Từ chợ cũ về bến đò Trung Quán (cạnh trường cấp
3 Quảng Ninh) cách vài trăm mét. Chợ lẫn trong xóm làng tan tác vì bom đạn. Họp
chớp nhoáng rồi tan, nhanh đến nỗi người mua chưa lấy hàng người bán đã quẩy
gánh. Đi nhanh về chóng là khẩu hiệu cũng là mệnh lệnh. Chợ họp trong vài ba
mươi phút, khoảng từ bốn rưỡi đến năm giờ sáng. Cái giờ đó, đêm còn yên tĩnh,
lũ phi công còn ngái ngủ. Sương giăng mờ ảo, trăng cũng vừa đủ sáng để thấy cái
màu của đồng tiền mà đoán trị giá của nó. Người bán không thách, người mua
không trả giá. Bó rau, con cá đã định trước rồi, bao nhiêu ai cũng biết. Người
mua, kẻ bán chạm mặt nhau hàng ngày, lỡ có đắt chút xíu thì hôm sau bù lại.
Cái tình người thời ấy là thế. Đi chợ, người
ta thạo tin chiến tranh hơn cả đài. Đêm qua rốc-két bắn Lộc Long có ba người chết,
bom bi thả ở Long Đại, trúng vào xe chở quân, bị thương mười mấy bộ đội mà toàn
con gái. Rồi Hoành Phổ, Phúc Lương* chưa đầy một tháng mà có mấy cái báo tử. Có
nhà làm lễ truy điệu anh rồi tiếp truy điệu em, tang chồng lên tang. Nhưng cũng
có những niềm vui từ chợ. Có người báo tử lại khoác ba-lô về lành lặn, có người
tưởng bị cụt chân hóa ra không phải, vì tin tức chiến trường qua năm lần bảy lượt
nó hao hụt hoặc vống lên là lẽ thường.
Chúng tôi lớn lên trong khói lửa đạn bom, chợ
cũng dăm ba lượt di dời.
Bẵng mấy chục năm đất khách quê người, tôi trở
về tìm lại hơi ấm tuổi thơ thuở trước. Tôi ra chợ, một mình với mái tóc già
nua, phiêu lãng trong nắng nhạt mùa đông. Tôi chầm chậm bước in lên dấu chân
mình, bàn chân khổ ải chạm vào dấu chân xưa nhỏ nhắn, hoang sơ một thuở như còn
vương mùi bùn đất. Văng vẳng nghe tiếng mẹ hối thúc bước nhanh cho khỏi nắng, mặt
trời đã một cây sào.
Con đường mòn vẹt lối ngoằn ngoèo thay bằng
bê-tông dày cộp, thẳng tắp. Người ta đi chợ bằng xe máy, người ta chở hàng bằng
công nông. Hai cây đa như hai cột chống trời đã bị đốn, để lại khoảng trống vắng
mênh mang dù quán hàng ken dày như phố.
Tôi đi tìm những con thuyền trên bến, tìm ông
già ngồi nặn tò he, tìm chong chóng, tìm hàng khoai, hàng sắn,…tìm mãi, tìm
mãi, không còn. Nhưng, mùi hương cỏ mật, tiếng dế đồng vẫn văng vẳng đâu đây,
mùi bánh rán ngày nào thức giấc, vài xu bánh tráng vừng mẹ mua tròn như mặt trời
tuổi thơ hiện lên trong tâm thức.
Tôi gặp chợ như gặp lại đồng quê, cũng cánh đồng
có gió và nắng, cũng cây lúa xanh rì nhưng không tìm ra cánh cò, không tìm ra
tiếng chim sẻ đồng chiêm chiếp. Một chợ ô vuông rubic bê-tông, san sát hình ảnh
kiêu sa của người mẫu quảng cáo, ồn ã, chào mời những món Tây, Tàu.
Thời gian làm tôi già đi nhưng chợ thì trẻ lại.
Cái già nua của chợ cách mấy chục năm trước là bạn của tuổi thơ tôi. Sự trẻ
trung của chợ hiện thời như đối lập với tôi dù tuổi tôi chỉ bằng phần trăm tuổi
chợ. Tôi lạc lõng trong đông vui của thiên hạ. Cô đơn như cánh chim không biết
đậu vào đâu trong hoàng hôn.
Nhìn cụ già miệng nhai trầu chầm chậm bước ra
từ chợ. Mẹ tôi còn sống chắc bà cũng như thế, cũng đi chợ hàng ngày, cũng tằn
tiện từng đồng xu cắc bạc. Tôi thấp thoáng nhớ về miền xa lắc trong giấc ngủ
vùi dưới cơn gió từ bàn tay mẹ:
Ồ
ô ồ ôộc
Cà
côộc lá lay
Cổ
Hiền đơm xay
Bình Thôn nấu náng
Nguyệt Áng rọn ràng
Mời
làng tới ăn...
Câu hát nửa thế kỷ đã trôi qua mẹ hát ru tôi
vẫn nguyên vẹn, vĩnh hằng. Nhưng đau đớn thay, trên mảnh đất này, nơi chôn nhau
cắt rốn của tôi, quê hương yêu dấu của tôi, có còn ai hát nữa câu hát ngày xưa.
Từ Sâm
Tập san Quán Văn số 022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét