“Màu
dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” (Hoàng Cầm)
Tôi
nhớ hồi tuổi mình còn thơ, tôi vẫn trông cho mau tới Tết để được hưởng nhiều
thú vui, trong đó có thú vui được xem tranh Tết. Những bộ tranh Đinh Bộ Lĩnh cờ
lau tập trận, Phù Đỗng Thiên Vương phi ngựa sắt diệt giặc Ân, Bà Triệu cưỡi voi
bành vàng ra trận, Trần Quốc Toản tuyển quân, tập trận sẵn sàng đánh đuổi quân
Nguyên… rất phù hợp với tuổi tâm sinh lý, trí tưởng tượng của tuổi thơ. Sau này
lớn lên trong vùng quê Phủ An, tôi hiểu ra rằng, ở đây người ta có cái thú treo
tranh Tết, như thú dán câu đối Tết, làm thơ khai bút đầu Xuân.
Những
bộ tranh Tết dễ gặp nhất hồi cách đây mấy mươi năm là tranh tứ bình (mỗi bộ có
bốn tấm đăng đối) vẽ tứ thời hoặc tứ dân, kế đó là những tranh vẽ theo tiểu
thuyết Tàu, theo truyện cổ dân gian Việt Nam…
Tranh
“tứ thời” thì vẽ mùa Xuân - hoa mai nở, mùa Hạ – cây tùng xanh đậm, hoặc cây
lan xanh mượt, mùa Thu - hoa hoàng cúc, mùa Đông - khóm tre. Tức Mai
- Tùng (hoặc Lan) - Cúc - Trúc. Cũng có khi vẽ Đào – Hà – Cúc – Mai.
Vì hoa sen (Hà) nở về mùa Hè; hoa mai nở sớm vào tiết trời Đông giá, để cho
người ta còn gọi là Hàn mai. Nhưng cũng thật linh động, vì có những bộ tứ thời vừa vẽ cảnh vừa vẽ vật. Những
con vật thêm vào thường là con hươu sao, chim họa mi, trĩ, sẻ, yến, vịt,
gà trống, bướm… Chúng đậu trên cành cây (cảnh), thường đủ đôi trông vẻ tình tứ
(trông vẻ tình tứ như những người yêu nhau hoặc cả một đàn ríu ran.
Người
ta còn có thể gặp những bộ tứ thời lấy biểu trưng khác: Mai – Hạc – Dung –
Trĩ hoặc Cúc – Phượng – Tùng – Công, tức không theo ước lệ sẵn có mà thực
tùy hứng. Tôi còn nhớ một bộ tứ bình đã gặp được ở nhà từ đường một họ lớn ở làng Thuận
Thái, xã Nhơn An (An Nhơn – Bình Định). Bộ ấy vẽ: Mùa Xuân cây hoa cúc và con
chim yến – mùa Hạ bụi chuối và con voi – mùa Thu hoa sen và đôi cua – mùa Đông
cành mai và con họa mi.
Mỗi
lần được xem một bộ tranh tứ thời, tôi không làm sao khỏi liên hệ đến những bài
thơ vịnh tứ thời được yêu thích. Bốn bài thơ thất ngôn tứ tuyệt vịnh tứ thời
của nữ sĩ Ngô Chi Lan (thời Vua Lê Thánh Tông) là bốn bức tranh cảnh vật bốn
mùa được thu nhỏ lại, đặt bên cạnh nhau một cách đăng đối. Và đây, bài
Xuân từ :
“Sơ
tình huân nhân thiên tự túy
Diễm
dương lâu đài phủ noãn khí
Cách
liêm liễu nhứ độ oanh thoa
Nhiễu
hạm hoa tu xuyên điệp si”
được
Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch :
“Hun
người nắng mới như say
Lâu
đài ấm áp nhuộm đầy dương quang
Cách
rèm liễu biếc oanh vàng
Quanh
hiên cái bướm mơ màng trong hoa”
thực
là một bức tranh Xuân nhỏ mà đủ cảnh đủ tình để cho người xem lấy làm thích thú
lắm.
Tranh
“tứ dân” không được phong phú bằng tranh đề tài “tứ thời”, nhưng khá linh hoạt:
Bộ tranh “Ngư – Tiều – Canh – Độc” này thì vẽ cảnh một người ngồi thạch bàn câu
cá, một tiều phu trẻ gánh củi trên vai, một nông dân đứng bên cạnh con trâu, một
thầy đồ đang giảng sách cho học trò; nhưng bộ kia lại vẽ cảnh một lão ngư trên
chiếc thuyền dăng câu, một lão tiều gánh củi về, một nông dân với con trâu đang
cày ruộng, một anh học trò đang đọc sách.
Bộ
tứ bình được coi là quý khi dưới mỗi cảnh có đề thơ vịnh, đó là tranh “nhất thi
nhất họa”, thi họa đi đôi với nhau đã khá quen thuộc. Ngoài ra, còn có thể có
tranh đề tài “tứ nghiệp”: Cầm - Kỳ - Thi - Họa (hay Cầm - Kỳ - Thi - Tửu), rất
ít gặp.
Những
tranh tứ bình, phần nhiều được in màu, do Nhà Tín Đức Thư Xã ở Chợ Lớn – Sài
Gòn xuất bản; nhưng cũng có những tranh thủy mặc nhập từ Trung Quốc. Mỗi lần
Tết đến, tôi vẫn được theo ba, má đi chúc Tết, đi mừng tuổi, được bạn học ở
trường Phủ An mời đến nhà chơi. Nhờ đó, tôi đã tới nhà ông Cử Nhì, ông Tú Kép, ông
Đốc Lãng, ông Huấn đạo Nghĩa…. Nhờ đó, tôi biết, tranh tứ bình là thú chơi của
người phong lưu, tao nhã.
Tranh
tiểu thuyết Tàu lấy đề tài trong tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, một
loại tiểu thuyết hấp dẫn đối với đại chúng. Mỗi bộ tranh có 4 tấm, mỗi tấm 3 ô
bằng nhau, tổng cộng thành 12 ô, tóm tắt từ đầu đến cuối truyện. Ở vùng Phủ An
rất dễ gặp những bộ tranh Tam Quốc diễn nghĩa, Tây Du ký, Thủy Hử… Kế đó là
tranh vẽ theo truyện cổ dân gian, truyện thơ Việt Nam: Quan Âm – Thị Kính,
Thạch Sanh, Phan Trần, Lục Vân Tiên, Mục Kiền Liên…Bên cạnh, còn có những bộ
tranh vẽ đề tài lịch sử nước nhà: tranh Trưng Nữ Vương đánh quân Nam Hán, An
Dương Vương – Mỵ Châu – Trọng Thủy, Lý Thường Kiệt đánh đuổi giặc Tống …
Các
loại tranh từ tiểu thuyết Tàu trở xuống thường gặp ở các nhà bình dân. Tranh in
màu lòe loẹt trên nền giấy trắng.
Tranh
Đông Hồ sản xuất ở làng Hồ – Hà Bắc. Những bức thường gặp là Đám cưới chuột,
Thầy Đồ cóc, Hứng dừa, Đánh ghen, Kéo co, Đánh vật… vừa khôi hài vừa có ý nghĩa
ngụ ngôn, khiến người xem tranh có mối xúc cảm và không khỏi liên hệ mà ngâm
ngợi: “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong /Màu dân tộc sáng bừng trên giấy
điệp” (Hoàng Cầm). Tiếng là tranh dân gian nhưng không phổ biến ở quê tôi, nó
có mặt ở nhà có học thức, giới yêu nghệ thuật truyền thống.
Tranh
độc bản chỉ có một tấm duy nhất. Những bức Chim ó đậu trên mỏm đá cao, Chim sẻ
đậu cành trúc (trúc - tước), Lã Vọng ngồi câu cá bên bờ sông Vị Thủy…là
những bức có thể gặp. Những tranh đó, có tấm sơn mài, tấm in trên giấy với màu
sắc tươi đẹp, nghe nói có nguồn gốc từ Trung Quốc nhập sang. Nhà treo tranh
này, chủ nhân chắc là người có tâm chí, hoài bão gì đó muốn mượn tranh nói hộ
thay mình.
Tranh
thư pháp lấy nghệ thuật viết chữ trên nền giấy trắng hoặc trên nền lụa đào mềm
mại để làm thú thưởng ngoạn. Tranh thư pháp ta thường gặp là những tấm viết chữ
Phật, chữ Tâm (thường kèm theo câu Tâm tự lưu thủy). Nghệ thuật viết đại tự
những chữ Phước, Thọ, Càn Khôn, Thái Sơn… như “phượng múa rồng bay” trên nền
giấy bồi trắng hoặc đỏ đậm để thờ Gia tiên cũng thường có mặt trong dịp Tết.
Những ông đồ nghèo có hoa tay viết những chữ này đem ra chợ Tết bán. Tới thời
Nho học suy tàn (đầu thế kỷ XX), nghề viết đại tự cũng suy tàn theo, người
thưởng thức, người thuê mướn đều không còn. Hình ảnh ông đồ ngồi viết bức (tấm
thờ) ở “bên phố đông người qua” đã “xuống cấp” lắm và đã được nhà thơ Vũ Đình
Liên khắc họa một cách đáng thương: “Ông đồ vẫn ngồi đấy / Qua đường không ai
hay / Lá vàng rơi trên giấy / Ngoài trời mưa bụi bay”.
Tranh
bích họa là tranh vẽ trên tường nhà. Hồi cách đây mấy mươi năm, trong các vùng
quê Bình Định có những nghệ nhân làm nghề vẽ dạo. Cứ đến khoảng đầu tháng Chạp
Âm lịch, không biết từ đâu, nghệ nhân đeo khăn gói vào các làng, tìm nơi vẽ dạo
lấy tiền. Nhiều nhà giàu giữ nghệ nhân ở lại trong nhà mình vài ba hôm để vẽ
tranh. Nghệ nhân vẽ những bức tranh trên tường vôi trắng mới quét (để đón Tết).
Tranh vẽ bát tiên hay cảnh tứ thời, tứ dân bằng mực Tàu đen nhánh và son đỏ
tươi. Những bức tranh tường đó được quen gọi là những tấm “bích họa”. Nhà chùa
cũng hay mời nghệ nhân về chùa vẽ các sự tích Phật Thích Ca: thường là sự tích
Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia, Phật thành Đạo và thuyết pháp ở vườn Lâm Tỳ Ni…
Tranh
thêu trên lụa, nĩ thường thêu mãnh hổ, kỳ lân… Có những tấm to đến 1m x 1m,
treo lên trông như “chúa tể sơn lâm” thật, muốn nhảy ra vồ người xem. Tranh thì
ghê thế mà chẳng biết chủ nhân có gởi gắm điều gì không? Ở Đập Đá có gia đình
ông Tư Hồng làm nghề thêu tranh truyền đến ông là đời thứ 4. Thời nay, nghề
thêu máy đã thay cho nghề thêu thủ công.
Màn,
sáo tuy có chức năng che chắn… nhưng đó cũng là những bức tranh đẹp. Màn đan
bằng nan tre thật mảnh (không lớn hơn que tăm mấy), nhuộm màu; sáo luồn bằng
những ống trúc nhỏ bằng chiếc đũa, dài ngắn khác nhau chừng vài ba phân, nhuộm
màu, được sắp xếp tạo thành những bức tranh với đủ hoa văn, họa tiết. Sáo cũng
là một loại màn, nhưng gọi “sáo”, vì khi gặp gió, các ống trúc rung lên thành
tiếng vi vu lừng giai điệu, giống như tiếng con chim sáo nghệ huýt gió. Tranh,
bức treo trong nhà; màn, sáo treo ngoài hiên, hành lang dọc nhà. Tranh trên
màn, sáo thường là cảnh chùa Một Cột, nông dân cày đồng, lão ngư bơi thuyền câu
cá, bụi trúc, cành mai, cô gái mặt đẹp như trăng rằm, đầu đội nón bài thơ… Màn,
sáo do thợ thủ công trong vùng An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước … làm, rồi đem ra
bày bán ở chợ Phủ, các chợ quê. Màn, sáo thường “đi” với nhà lá mái, nhà lợp
ngói Tây, cửa pa – nô lá sách cho hợp. Nay, nghề màn sáo gần như đã thất
truyền.
Hàng
tranh bán khá chạy trong các phiên chợ Tết; nói chi chợ Phủ, đến chợ quê cũng
bán được tranh như thường. Trên đường làng trong mấy ngày Tết, người ta dễ gặp
những tốp đàn ông cắp trên tay chai rượu trắng ngần, gói trà Tàu, vài bộ tranh
Tết, vài tấm bức thờ …đủng đỉnh về chợ. Họ vừa đi vừa nói chuyện, có vẻ hài
lòng lắm, vì đầu óc họ đang tưởng tượng ra cảnh nhà mình đã được quét dọn lau
chùi sạch sẽ rồi, đã trồng xong cây nêu, chưng chậu hoa, dán câu đối, nay lại
treo thêm tranh Tết, tấm bức thờ …chắc chắn phải sáng rỡ lên, sẽ làm cho không
khí đón Tết tươi vui hẳn lên.
Tết
nhứt thời bây giờ, người ta lo mua sắm đồ ăn thức uống, ít ai có ý tưởng mua
tranh, nếu có ai nhớ đến tranh thì tự an ủi, đã có tranh trên tờ lịch thay thế.
Mấy ông chủ quán trà cung đình ở thành phố Quy Nhơn ra thành phố cổ Hội An mua
tranh thư pháp, tranh thủy mặc về treo. Ai dám chắc, các vị đó vị nghệ thuật
hay vị kinh doanh? Đi chúc Tết năm ngoái, tôi có dịp được thưởng lãm tranh đại
cảnh ở nhà một vài đại gia: Tranh “Vạn lý trường thành”, tranh bầy ngựa của Từ
Bi Hồng… Bộ nào cũng 4 tấm to, treo choán hết những mảng tường rộng.
Huỳnh Kim Bửu
Cố GS TrungHoc QuangTrung
BinhKhe
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét