Hồi
xưa chỉ có dân thị thành mới ăn bánh mì, dân ở các làng quê ít có dịp. Bây giờ,
người ở đâu cũng được ăn bánh mì, ăn cái ổ bánh mì nóng giòn; người ta đã có
thói quen ăn bánh mì như ăn bánh tráng, bánh xèo, bánh bèo, bánh hỏi…
Bánh
mì có từ lúc nào? Chắc chắn là không có sớm như bánh tráng để làm lương khô cho
đạo quân vua Quang Trung hành quân đi đánh đuổi giặc Thanh, ở cuối thế kỷ
XVIII; cũng không có sớm như bánh ít để đi vào ca dao cổ: “Muốn ăn bánh ít lá
gai / Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi” lưu truyền cho đến nay, chắc cũng
đã nhiều đời rồi. Người quê tôi bảo, bánh mì có từ thời Pháp sang, nó theo cùng
rượu Sâm banh, sữa bò, cùng những chức quan do Tây tuyển dụng vào bộ máy cai trị
của nó: “Thôi có làm chi cái chữ Nho / Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co / Sao bằng
đi học làm thầy Phán / Tối rượu Sâm banh sáng sữa bò” (Trần Tế Xương – Nho
tàn).
Bánh
mì chế biến từ nguyên liệu chính là bột mì (không phải bột sắn, bột củ mì)
ngoài ra còn có các thành phần nguyên liệu khác, như: muối, nước, trứng, men …
cùng các phụ gia. Cái ổ bánh mì thông dụng là bánh mì vàng nóng giòn, bánh mì
sanwich, còn bánh mì đen, trắng thì ít gặp... Thành phố Quy Nhơn hồi cách đây
40 - 50 năm, thấy làm ăn phát đạt, có lò bánh mì mà chủ nhân là một bà người
Hoa ở đường Gia Long (nay là đường Trần Hưng Đạo). Những người thợ của bà phải
làm việc từ nửa đêm để đến 3 – 4 giờ sáng cái bánh mì ra lò.
Buổi
sáng sớm là lúc hoạt động “cao trào” của việc phân phối bánh mì. Bánh mì nhanh
chóng có mặt ở khắp các đường phố, vào các quán ăn, nhà hàng... Trong đội ngũ
bán hàng rong ở thành phố, phải kể đội ngũ bán rong bánh mì, trong đội ngũ bán
rong bánh mì, trước hết phải kể những em bé bán bánh mì dạo mà hầu hết là con
em các gia đình nghèo. Sáng sớm nào, người ta cũng gặp các em trên đường phố với
cái bao vải màu mỡ gà đựng bánh mì đeo trên lưng (chứ không phải túi sách trên
lưng - le sac au dos - như một nhà văn Pháp tả trong một tiểu thuyết của ông).
Đường phố thì dài hun hút, chân các em thì non nớt. Các em vừa đi, vừa chạy lúp
xúp, vừa rao: “Bánh mì nóng giòn đ…â…y!… Bánh mì nóng giòn đ…â…y!…”. Tiếng rao
của các em lanh lảnh trên các đường phố rộng, trong các con hẻm sâu, nghe như
có chút khẩn cầu. Bạn đồng hành với các em là các xe tủ kính đẩy tay, thúng bưng
trên nách, đội trên đầu của các bà, các cô bán rong bánh mì không, bánh mì kẹp thịt, len lỏi cùng khắp, nhất là ở
chỗ bến xe, nhà ga, trong chợ, ngoài trường học…. Rải rác còn có tủ kính bánh
mì đặt cố định một chỗ trên các vỉa hè, trên các góc phố đông người. Mỗi sáng sớm,
người ta cũng thường gặp những đoàn xe đạp chở bánh mì ra ngoại ô, về nông
thôn. Trên “hành trình” xa ấy, bánh mì được giữ nóng bằng cách cho vào lồng đan
nan tre phất hai lớp giấy bao xi măng và bao nhựa kín mít.
Tô
bún, tô phở, hộp xôi… đều là những món đắt tiền hơn ổ bánh mì kẹp thịt. Không
ít người đồng tiền bát gạo khó kiếm, đã chọn giải pháp cho bữa ăn sáng bằng ổ
bánh mì không hoặc ổ bánh mì chan nhờ nước tương nơi tủ bánh mì vỉa hè, không dám mơ đến ổ bánh mì thịt. Ăn bát phở
kèm ổ bánh mì là ăn cầu no; ăn ca ri – bánh mì,
bánh mì - ớpla, bánh mì - pate,
bánh mì chấm bơ, bánh mì chấm sữa nóng … là ăn theo gout của các ông Tây bà đầm.
Giới làm ăn tất bật, mới sáng sớm, vào quán “kiếm” ly cà phê, nắm theo trên tay
ổ bánh mì. Leo lên tàu, xe mà cầm theo ổ bánh mì là người tranh thủ thời gian,
kẻo trễ xe tàu. Người lao động, nửa buổi, ăn ổ bánh mì, giản đơn mà lại “tái sản
xuất sức lao động”, học sinh ôn thi tới khuya lơ khuya lắc, ăn ổ bánh mì, là
“ăn vóc học hay”…
Ít
ai không có kỷ niệm với ổ bánh mì. Hồi đi học ở Quy Nhơn, bạn bè vẫn phong tặng
tôi danh hiệu nghệ sĩ Acmonica. Ấy, không phải vì tôi chơi tài tử món nhạc này
mà bởi các bạn thường thấy tôi ăn bánh mì, động tác khá giống người thổi
Acmonica; còn tôi thì chống chế lại bằng câu nói, cháy túi rồi, nhá bánh mì
thôi. Ngày làm việc ở Hội Chữ Thập Đỏ Bình Định, tôi vẫn có dịp đi cùng các
đoàn từ thiện xuống các vùng thiên tai bão lụt, và vẫn được “ngày 3 bữa” bánh
mì ngay trên xe cùng các đoàn cứu trợ, ấy vậy mà thấy khỏe, thấy phấn khởi tinh
thần, vì mình đang làm việc nhân đạo, cứu giúp người bị nạn. Hình như ít người
thành phố lại “vô tư”
đến không nắm địa chỉ những nơi bán bánh mì ngon. Ở Quy Nhơn, tới mua cái bánh
mì bà Hường ở đường TBH, thấy bao nhiêu là điều bắt mắt: Tay cô con gái của bà
thon búp măng, đeo nhẫn, cầm con dao Thái Lan thái chả, thái thịt, thái rau, rồi
cũng bàn tay ấy rạch ổ bánh mì, kẹp thịt chả, kẹp dưa leo, cọng hành ngò xanh,
lát ớt cay màu đỏ tươi, xịt nước tương vào cái ổ bánh, rồi đặt ổ bánh vào tờ giấy,
cuộn lại, trao bằng hai tay hai mắt cho người khách đang vui vẻ đợi. Tất cả các
động tác của cô bán hàng đều rất thành thạo, rất lịch sự, nó nhịp nhàng, khiến
tôi nghĩ đến điều: Cô ta đang làm theo một điệu nhạc rất du dương ở trong hồn
mình.
Trong
lịch sử thế giới, không ít cuộc đấu tranh với khẩu hiệu: “Bánh mì cho chúng
tôi”, “Chúng tôi cần có bánh mì”... Phụ nữ thế giới, cách đây 100 năm (1910 –
2010) đã giương cao khẩu hiệu “Bánh mì và hoa hồng” để đòi quyền làm việc ngày
8 giờ, việc làm ngang nhau và bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Sự kiện đó để lại cho
ngày nay tinh thần của ngày kỷ niệm Quốc tế Phụ nữ 8 / 3 hằng năm.
Ngày
nay, cái ổ bánh mì nóng giòn, cái bánh mì sanwich phổ cập đến mức, kể chi ở
thành phố, ở nông thôn đám giỗ, đám cưới, người ta cũng đãi bánh mì ca - ri thay cho bát cơm nóng như hồi xưa. Xế nào
cũng vậy, nhắm chừng bụng cơm trưa đã đói, cái ổ bánh mì lại lên tiếng: “Bánh
mì sữa, đặc ruột thơm ngon, 2000 một ổ”… “Bánh mì sữa, đặc ruột thơm ngon, 2000
một ổ”… vang vang các đường phố. Người ở các nước là quê hương của bánh mì, nhưng
sang Việt Nam thì vẫn khen cái bánh mì Việt Nam ngon hơn. Vì bánh mì nước họ rất
mềm hoặc rất cứng, đen hoặc trắng, nóng hoặc nguội ngắt, chứ không như bánh mì
Việt Nam vừa giòn, vừa xốp, có cạnh bánh giòn, thơm, hơi cháy vàng… ăn ngon tuyệt.
Có nữ du khách người Nhật nói, bà ta mê bánh mì kẹp thịt ở Việt Nam, không mê
phở bằng mê bánh mì.
Huỳnh Kim Bửu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét