Sinh ra và lớn lên ở thị trấn Phú
phong, nơi có sở dệt tân tiến Delignon nổi danh tận Pháp quốc, tôi xin được tự
nhận là con dân Tây sơn - Bình định. Tình cảm của tôi đối với quê hương cũng
thăng trầm như sự thăng trầm của quê hương mình.
Theo thời gian, nhiều ít đậm nhạt
khác nhau, trong tôi thường có sự suy tưởng cảm kích (không dám nói là tự hào)
về cái "hùng tâm dũng khí", về "địa linh nhân kiệt" của Tây
sơn Bình định. Ðây là nơi phát tích của các anh hùng dân tộc Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, rồi đến Mai
Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ ( ... ... )
Bên đó, thú thật, có đôi lúc tôi lại lởn vởn chút mặc cảm u buồn, chút bàng hoàng ngao ngán về tâm địa, về sự đối xử trong quá khứ giữa người Bình định với nhau - gay gắt quyết liệt giữa những người khác chiến tuyến đã đành, mà nhiều khi chỉ vì chút danh lợi nhất thời đã có sự phũ phàng với cả bạn đồng hành. Có phải đây là mặt trái của một tấm huy chương? Dầu sao tôi vẫn yêu mến quê hương và yêu mến thiết tha hơn khi mình phải rời bỏ quê hương tìm sống nơi đất khách quê người.
Quê hương chúng ta là một tỉnh duyên
hải trù phú của miền trung Trung phần Việt nam, nằm trên dưới vĩ tuyến 14. Phía
bắc giáp tỉnh Quảng ngãi với đèo Bình đê. Phía nam giáp tỉnh Phú yên với đèo Cù
mông. Phía đông là biển. Phía tây ngăn cách với tỉnh Gia lai (Pleiku) bởi rừng
rậm và đèo cao (có khi là đèo An khê tức đèo Ngang, có khi là đèo Mang Yang do
vùng An khê thuộc tỉnh Gia lai hoặc tỉnh Bình định). Tỉnh ta có biển sâu, có
núi cao, có sông dài. Quốc lộ 1 chạy theo chiều nam bắc từ đèo Cù mông đến đèo
Bình đê. Quốc lộ 19 từ cầu Bà Gi đến Pleiku. địa thế vừa hùng vĩ vừa hiểm hóc,
có cái thế "long bàng hổ cú", Bình định là đất dụng binh tiến thủ lợi
hại của ngày xưa. Có người khái quát về Bình định bằng mấy câu:
Ba dòng sông
chảy
Mấy dãy non cao
Biển đông sóng vỗ dạt dào
Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh!
Mấy dãy non cao
Biển đông sóng vỗ dạt dào
Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh!
Ba dòng sông lớn là: sông Côn chảy qua các huyện Bình khê, An nhơn, Tuy phước đổ vào đầm Thị nại; sông Lại giang chảy qua các huyện Hoài ân, Hoài nhơn đổ về biển đông, và sông La tinh chảy giữa hai huyện Phù mỹ , Phù cát đổ về cửa Ðề Gi.
Những dãy núi nổi tiếng ở Bình định
là:
-
Dãy Tây sơn, dãy Sọc Kính (Lộc Ðổng) và Hoành sơn ở huyện Bình khê.
Trong dãy Tây sơn và Hoành sơn có những địa danh lưu dấu tích của ba vua Tây
Sơn, còn Lộc Ðổng là nơi anh hùng Mai Xuân Thưởng lập căn cứ chống Pháp:
Ngó vô Linh
Ðổng mây mờ
Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ khởi binh
Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ khởi binh
- Ở huyện Phù cát có núi Bà (Bà Sơn), hình thể hoành tráng hiên ngang, ôm ấp mối tình chung thủy của người vợ trông chồng - hòn Vọng phu:
Lụy nhớ mưa
ngàn tuôn nượp nượp
Tóc
thề mây núi bạc phơ phơ
Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi
Nước vướng tình sâu chảy lững lờ.
Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi
Nước vướng tình sâu chảy lững lờ.
Ở đây còn có chùa Linh Phong ghi tạc câu chuyện ly kỳ của nhà sư tục gọi là ông Núi, câu chuyện huyền hoặc nhưng chưa đựng nhiều chất thơ và chất đạo...Phía bắc Bình định có hòn Tổng Dinh ở Hoài ân, còn treo gương anh dũng của nhà cách mạng tiền bối Tăng Bạt Hổ. Ngoài ra còn nhiều ngọn núi nhỏ mang những sự tích và huyền thoại kỳ thú.
Bình định vốn là đất cũ của Chiêm thành, dấu tích rõ rệt là thành Ðồ bàn và các tháp cổ. Thành Ðồ Bàn nằm trong phạm vi thôn Nam tân, xã Nhơn hậu, quận An nhơn, bị hoang phế từ lâu, chỉ còn lại các bờ thành đắp bằng đất hoặc xây bằng đá ong, sụp lở chỗ thấp chỗ cao. Gần đó là "tháp Cánh Tiên riêng đứng dãi dầu" cùng chung cảnh ngộ với đền thờ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu: lạnh lẽo, hoang tàn, sụt sùi trong nắng mưa, sương gió.
Ngó lên hòn
tháp Cánh Tiên
Cảm thương ông Hậu thủ thiềng ba năm.
Cảm thương ông Hậu thủ thiềng ba năm.
Có lẽ nhờ lòng người cảm thương ông Hậu quân Võ Tánh thủ thành ba năm mà tháp Cánh Tiên được nhắc nhở trong câu ca dao trên, trở thành câu hát ru của dân gian Bình định ở ba vùng An nhơn, Bình khê, Tuy phước. Nhiều người Bình định chắc còn nhớ câu đối nổi tiếng ở lăng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu:
Quốc sĩ vô song
- song quốc sĩ
Trung thần bất nhị - nhị trung thần
Trung thần bất nhị - nhị trung thần
Ngoài tháp Cánh Tiên, Bình định còn nhiều ngọn tháp kỳ vĩ khác như:
- Tháp Dương long (3 ngọn tháp) và tháp Thủ thiện ở huyện Bình khê.
- Tháp Bánh Ít ở Phước hiệp, Tuy phước bần cầu Bà
Gi, gần tu viện Nguyên Thiều.
- Tháp
Ðôi ở Qui nhơn, gần cầu Ðôi
- Tháp Tri thiện ở Phước quang, Tuy phước.
-
Và một ngọn tháp mồ côi ở quận Phù cát, trên đường đi về hướng núi Bà, ở
phía ngoài Bá canh, An nhơn.
Kể cũng lạ là các quận ở phía bắc không có một ngọn tháp Hời nào. Và những ngọn tháp kể trên, ngoài tháp Cánh Tiên, không thấy "đi vào lòng người"; không có những câu ca, câu thơ nhắc nhở đến tháp. Mãi gần đây, thật gần đây, mới nghe những câu ca dao "tân thời", chẳng hạn:
Tháp Bánh Ít
đứng sít cầu Bà Gi
Người vào Nam kẻ ra Bắc ai cũng đi con đường này
Tháp Ðôi đứng cạnh cầu Ðôi
Vật vô tri còn có đôi lứa huống chi tôi với nường
Vững vàng tháp cổ ai xây
Bên kia Thủ thiện, bên này Dương long...
Người vào Nam kẻ ra Bắc ai cũng đi con đường này
Tháp Ðôi đứng cạnh cầu Ðôi
Vật vô tri còn có đôi lứa huống chi tôi với nường
Vững vàng tháp cổ ai xây
Bên kia Thủ thiện, bên này Dương long...
Dưới thời Hậu Lê (giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh) Bình định có hai huyện là Tuy viễn và Phù ly. Huyện Tuy viễn trông coi các quản hạt: An nhơn, Tuy phước, Bình khê. Huyện Phù ly: Phù cát, Phù mỹ, Hoài nhơn, Hoài ân. Cơ quan đầu não đóng ở thành Qui nhơn (cạnh Ðồ bàn). Dưới thời Tây Sơn, vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc đóng đô ở đây tức Trung ương Hoàng đế thành, dân gian gọi là Ðế Kinh.
Chiều chiều mây
phủ Ðế Kinh
Ếch kêu giếng lạn thảm tình đôi ta...
Ếch kêu giếng lạn thảm tình đôi ta...
Sau này dưới triều Nguyễn, thành được xây dựng vững chắc, bề thế và mang tên thành Bình định (nằm trong xã Nhơn hưng, quận An nhơn). Khoảng thập niên 1930, cơ quan tỉnh của Nam triều được dời về thành phố biển Qui nhơn cho gần với dinh Công sứ của Pháp.
Dưới triều Nguyễn, tỉnh Bình định có
các phủ Hoài nhơn, An nhơn, Tuy phước và các huyện Phù mỹ, Phù cát, Hoài ân,
Bình khê (năm 1944 huyện Phù mỹ đổi ra phủ). Sau năm 1945 không còn gọi là phủ
mà gọi chung là huyện. Mỗi huyện trong các năm 1947-1948 có các cuộc sát nhập
các làng nhỏ thành một xã vừa, và đến năm 1949 thì hai hay ba xã vừa sát nhập
thành một xã lớn. Người ta dùng một chữ của tên huyện kèm theo một chữ khác để
đặt tên cho xã mới. Các xã của Hoài nhơn là: Hoài đức, Hoài mỹ, Hoài vương,
Hoài thanh... (ngoại lệ là Bồng sơn và Tam quan). Các xã của Hoài ân: Ân phong,
Ân tín, Ân tường... Huyện Phù mỹ: Mỹ quang, Mỹ trinh, Mỹ an, Mỹ thọ... Huyện
Phù cát: Cát trinh, Cát tài, Cát hanh, Cát sơn... Huyện Tuy phước: Phước nghĩa,
Phước lộc, Phước quang, Phước hậu... Huyện An nhơn: Nhơn hưng, Nhơn hậu, Nhơn
an, Nhơn hạnh... (ngoại lệ là xã Ðập Ðá). Huyện Bình khê: Bình phú, Bình nghi,
Bình tường, Bình giang, Bình quang, Bình thành, Bình hòa, Bình an, Bình tân,
Bình thuận.
Sau tháng 5 năm 1955 tỉnh Bình định
vẫn giữ nguyên các huyện và xã như trước, chỉ có đổi huyện thành quận, và đến
năm 1961 đổi thôn thành ấp (khi có quốc sách Ấp chiến lược).
Từ năm 1957 tỉnh Bình định thành lập
các Nha Phái viên Hành chánh trông coi các xã miền Thượng: Nha Hành chánh Vĩnh
thạnh, nha Hành chánh Vân canh và nha Hành chánh An lão. Ðến năm 1961-1962, mỗi
nha Hành chánh trên lại trông coi một, hai xã kinh của quận lân cận và được đổi
thành các quận Vĩnh thạnh, Vân canh, An lão. Từ năm 1965 về sau, do tình hình
chiến sự ác liệt, các quận trên không còn nữa và sát nhập vào các quận kế cận.
Năm 1960, vùng An khê, huyện Tân an
tỉnh Pleiku được đặt thống thuộc tỉnh Bình định với tên mới là quận An túc.
Công việc hành chánh, trị an được điều hành tương tự những quận khác của Bình
định.
Năm 1970, quận Tam quan được thành
lập, lãnh thổ gồm các xã Tam quan, Ðức hựu, Hoài thanh mang tính chất một địa
bàn quân sự tạm thời hơn là một quản hạt có ý nghĩa chính trị, lịch sử.
Từ tháng 5-1955 thành phố Qui nhơn
mang tên là xã Qui nhơn trực thuộc toà Hành chánh tỉnh. Năm 1972 thị xã Qui
nhơn được chính thức thành lập, lãnh thổ gồm xã Qui nhơn cũ và các xã lân cận
nguyên của quận Tuy phước là Phước hậu, Phước lý, Phước hải, Phước tấn. Thị xã
Qui nhơn gồm hai quận Nhơn bình và Nhơn định với 16 (?) phường trực thuộc,
phường nào cũng mang chữ Trung: Trung chánh, Trung đức, Trung từ v.v... Việc
đặt tên phường này thực ra chưa thỏa đáng lắm, nhiều tên hay nhưng cũng có tên
bị gán ghép gò bó như Trung cảng. Tất cả đã là quá khứ và chìm vào quên lãng!
Tưởng cũng nên nhắc lại xã Phước tấn nói trên là nơi có bệnh viện Qui hòa và
phía ngoài trên một ngọn đồi của Gành Ráng là mộ Hàn Mặc Tử.
Sau tháng 4-1975 tỉnh Bình định cùng
với tỉnh Quảng ngãi sát nhập làm một, mang tên tỉnh Nghĩa bình! Mãi đến 1989
hai tỉnh lại tách ra và mỗi tỉnh lại trở về với tên cũ của mình. Các huyện, xã
của tỉnh Bình định cũng có nhiều thay đổi, nhất là ở cấp xã, thôn. Huyện Bình
khê đổi thành huyện Tây sơn. Riêng quận An túc từ tháng 4-1975 trở lại với tên
huyện An khê và trực thuộc tỉnh Gia lai.
Tôi muốn tách riêng để nói đôi điều
về Tây Sơn.
Ðây là nơi phát tích của Ba vua Tây
Sơn mà lẫy lừng nhất là Quang Trung hoàng đế. Ðất Tây sơn chạy dài từ thôn Phú
lạc, xã Bình thành đến tận suối Bèo, thôn Trường định, xã Bình hòa, quận Bình
khê. Ba anh em nhà Tây Sơn thuở nhỏ theo thân phụ là Nguyễn Phi Phúc đến cư ngụ
tại làng Phú lạc rồi sau di chuyển đến làng Kiên mỹ, dọc theo bờ bắc sông Côn.
Trên vùng này còn các di tích của ba anh em Tây Sơn: vườn Dinh nơi xưa kia là
nền nhà của gia đình Nguyễn Phi Phúc. Bến Trường Trầu là nơi mà thuở nhỏ ba anh
em Tây Sơn dùng thuyền nan phụ giúp thân sinh giao lưu buôn bán với thương lái
thượng du. Ðình Kiên mỹ bên ngoài là thờ thần nhưng bên trong âm thầm thờ cúng
Ba vua Tây Sơn. Ðịa điểm mà năm 1960 nhân dân địa phương xây điện Tây Sơn cũng
là di tích cũ nơi có đền thờ Ba vua Tây Sơn xây cất khiêm tốn theo kiểu xưa, náu
mình dưới bóng một cây me cổ thụ mà hàng năm vào ngày Rằm tháng 11 âm lịch dân
chúng địa phương mang lễ vật, quà bánh đến cúng kính. Vì thời cuộc và trải qua
thời gian dài mưa nắng đền thờ nhỏ hẹp này bị sụp đổ chỉ còn lại cái nền nhà,
một giếng nước xây bằng đá ong và cây me già cỗi. Xa xa phía sau điện là gò Ðá
Ðen, nơi nghĩa binh Tây Sơn thao luyện quân sĩ để mưu đồ nghiệp lớn. Trên dãy
Hoành sơn ở phía bờ nam sông Côn (xã Bình tường) tương truyền có ngôi mộ thân
phụ Ba vua Tây Sơn, và cũng là nơi ngày trước Nguyễn Nhạc đã nhận ấn kiếm do Trời
ban cho để dựng đế nghiệp.
Ðất Tây Sơn với địa giới nói trên có
người bảo đó là Tây Sơn hạ. Còn Tây Sơn thượng nằm trong lãnh địa quận An khê,
phía làng Thương an dưới chân đèo An khê, nơi có núi ông Bình là vùng căn cứ
của nhà Tây Sơn ẩn tập để chiêu hiền đãi sĩ, mãi mã chiêu binh mưu đồ đại sự.
Buổi ban đầu nghĩa binh phần lớn là người Thượng, lực lượng cung nỏ thiện chiến
quan trọng và đắc lực sau này.
Theo thiển ý, đừng nên phân chia
thượng hạ làm gì. Có thể hiểu đất Tây Sơn bao trùm cả lãnh thổ huyện Bình khê,
khởi đầu từ Phú lạc đến Trường định và phía bắc sông Côn, sau mở rộng sang phía
nam từ Hoành sơn đến Thủ thiện, lấy vùng đèo An khê làm mật khu hậu cứ. Từ đó
thanh thế nhà Tây Sơn lớn mạnh khắp Bình định và lẫy lừng cả nước qua các cuộc
bắc phạt nam chinh. Bởi vậy có thể gọi đất Bình khê là... đất Tây Sơn không có
gì là sai lầm (Dù vậy bây giờ đổi tên huyện Bình khê thành huyện Tây sơn lại là
chuyện khác, không phải ai cũng tán đồng - Lý do xác đáng có nhiều nhưng là
chuyện sẽ bàn ở mai sau).
Ðiện Tây Sơn được trùng tu năm 1960
theo ý kiến của thân hào nhân sĩ địa phương và sự chủ xướng của ông Hoàng Ðình
Giang là quận trưởng Bình Khê lúc bấy giờ. Ðiện xây dựng trên đền thờ cũ ở thôn
Kiên mỹ, xã Bình thành. Gian giữa thờ vua Quang Trung. Gian bên tả thờ hai vua
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và gian bên hữu thờ tướng tá bộ thuộc. Hai bên cửa vào
điện có câu đối:
Tây Khê thảo thụ lưu kỳ tích
Nam quốc sơn hà ký võ công
Ở trước sân điện có dựng bia khắc bài văn kể sự tích và công đức nhà Tây Sơn, nổi bật là Quang Trung Hoàng đế. Bài văn bia do nhà thơ Quách Tấn phụng thảo. Nghe nói sau 30-4-1975 bia này đã bị trát xi măng lên. (Hồi ký của ông Nguyễn Hiến Lê có nói đến việc này)
Từ 1960 đến 1975 hàng năm vào ngày
Tết Nguyên đán, quận Bình khê tổ chức lễ kỷ niệm chiến thắng Ðống Ða rất trọng
thể. Chiều hôm trước lễ tế được cử hành tại điện theo nghi thức cổ truyền. Sáng
hôm sau quần chúng tập họp rất đông đảo trước sân điện và cả xung quanh để dự
lễ theo hình thức mới, nghe nhắc nhở lịch sử và ý nghĩa chiến thắng Ðống Ða...
Có năm tổ chúc qui mô lớn, có diễn lại trận Ðống Ða, diễn hành bộ binh và biểu
diễn không quân.
Cũng trong tinh thần tưởng nhớ công
đức tiền nhân, năm 1962 quận Bình khê đã xây lăng mộ nhà anh hùng Mai Xuân
Thưởng, nguyên soái lãnh đạo lực lượng Cần vương Nam Ngãi Bình Phú chống lại
cuộc đô hộ của quân Pháp dưới thời vua Hàm Nghi. Anh hùng Mai Xuân Thưởng là
người thôn Phú lạc, Tây sơn, sau khi tuẫn quốc được mai táng tại núi Phú lạc.
Tháng 4-1962 phần mộ được cải táng đưa về an vị tại lăng thờ, xây dựng trên đồi
núi dưới chân dãy Hoành sơn cạnh quốc lộ 19. Hàng năm nhân dân địa phương khói
hương chiêm bái.
Về chuyện Tây Sơn, có truyền thuyết
là một thầy địa lý người Tàu thấy nhà Tây Sơn hưng thịnh quá nên bày kế đào nối
hai dòng sông ở Bình khê, bên ngoài là để cho việc giao thông đường thủy thuận
lợi, nhưng bên trong là làm cho "long mạch" bị đứt để nhà Tây Sơn sớm
đổ. Chuyện "đứt long mạch" không chắc có, còn chuyện đào nối hai dòng
sông là thực, chứng tích còn đó. Số là, dòng sông Cái - tức sông Côn - từ phía
tây chảy xuống khi đến địa phận Cây Muồng (địa điền thôn Phú lạc) thì rẽ về
hướng bắc, chảy sau lưng xóm Chơn tự rồi mới chảy vòng lại phía đầu thôn Kiên
mỹ và xuôi dòng như hiện nay. Còn sông Con - tức sông Ðá Hàng - từ phía nam
(vùng núi Lộc đổng) chảy ra, khi đến ngang đầu thôn Hạnh lâm (Bình tường) thì
rẽ về hướng đông đi ngang qua vùng Bà Bờ lặng chảy dài đến suối Ðồng Sim (Bình
phú) đổ ra sông Cái. Theo các dòng chảy này thì thời đó từ làng Phú phong sang
làng Trinh tường không có qua sông và xóm Chơn tự là giải đất liền của làng
Trinh tường.
Thầy địa lý Tàu xúi đào con sông Cái
chạy thẳng từ Cây Muồng cắt mặt xóm Chơn tự chảy đến địa đầu thôn Kiên mỹ,
thẳng dòng về đông. Còn sông Ðá Hàng thì đào cho nước chảy thẳng theo hướng nam
bắc nối với dòng sông Cái mới đào chỗ đầu thôn Kiên mỹ. Từ đó, Phú phong sang
Trinh tường phải qua sông: thời Pháp thuộc có bắc cầu bê tông kiên cố, tục gọi
là cầu Phú phong nằm trên quốc lộ 19. Xóm Chơn tự bỏ nằm bên bờ bắc sông Côn,
mặt sau liên địa với thôn Phú lạc nhưng mặt trước bị sông chia cắt khỏi làng cũ
là Trinh tường. Dù vậy xóm Chơn tự vẫn thuộc làng Trinh tường tuy qua lại đò
giang cách trở. Mãi cho đến sau năm 1945 xóm Chơn tự mới nhập vào thôn Phú lạc,
thuộc xã Bình thành.
Trên hai đoạn mà các dòng sông Cái,
sông Con bị ngăn chặn, qua thời gian dài đã được bồi lấp thành ruộng, thành
soi, còn chỗ sâu thì thành những cái bàu, nước quanh năm không cạn. Ðó là bàu
Sen ở Phú lạc, bàu Bờ lặng trên và bàu Bờ lặng dưới ở Phú phong. Ở các bàu này
ngày trước người ta tìm thấy những đoạn dây neo cũ kỹ, chứng tỏ xưa có ghe
thuyền qua lại.Trước nay chưa có ai bỏ công nghiên cứu, tìm hiểu việc đào nối
các dòng sông nói trên để đưa ra những chứng tích địa lý và lịch sử lý thú, xác
minh sự kiện một cách khách quan.
Một chuyện khác về huyện Bình khê.
Trước năm 1975 các viên tri huyện
Bình khê có ý chê trách dân Bình khê ưa kiện tụng lẫn nhau (tranh giành hương
chức) và bảo là "Bình Khê thất thuận". Sự thực thì huyện Bình khê có
7 làng mang chữ Thuận ở trước nên gọi là thất Thuận. Chữ Thất là 7 đồng âm với
chữ Thất là mất, nên theo lối chơi chữ gọi là Bình khê thất thuận là Bình khê
mất sự thuân hòa xảy ra tệ điêu tụng. Bảy làng mang tên Thuận là: Thuận Hạnh,
Thuận Nhất, Thuận Truyền (Bình thuận), Thuận Ninh, Thuận An, Thuận Hòa (Bình
tân) và Thuận Nghĩa (Bình thành). Ngày trước lớp cựu hương lý (nay qua đời hết)
hay nhắc đến chuyện này, chứ lớp trẻ chẳng ai biết hay không biết bảy làng mang
chữ Thuận nói trên là những làng nào?
Bây giờ xin trở lại vào chuyện khác
của Bình định.
Bình định cũng là đất "văn
vật", ngày trước cũng nổi tiếng về văn học, nghệ thuật. Có nhiều bậc danh
nhân, đại thần, khoa bảng ngày xưa mà tên tuổi chưa phai mờ trong ký ức người
Bình định.
Kể từ khi có địa danh Bình định tức
là khi chúa Nguyễn mở mang phía Nam thì Ðào Duy Từ được biết đến như một Khổng
Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc bên Tàu. Ông được chúa Nguyễn Phúc Nguyên
trọng dụng phong tước Lộc Khê hầu, giúp chúa Nguyễn tạo dựng cơ đồ vững chãi.
Vốn là người Thanh hóa có tài nhưng vì là con nhà xướng ca không được đi thi,
ông phẫn uất bỏ vào miền Nam lập nghiệp. Ông đến phủ Hoài nhơn tá túc nhà một
phú nông ở làng Tùng châu - Bồng sơn. Quan Khâm lý Trần Ðức Hòa biết là bậc
hiền tài tiến cử lên chúa Nguyễn. Tên tuổi và sự nghiệp của Ðào Duy Từ gắn liền
với Bình định.
- Ðặng Ðức Siêu người Bồng sơn, đại thần dưới
triều Gia Long, tác giả bài văn tế Võ Tánh Ngô Tùng Châu.
- Ðào Tấn người huyện Tuy phước làm quan dưới
triều Tự Ðức, là người biệt tài về nghệ thuật hát tuồng - hát bội Bình định. Cụ
vừa là soạn giả nhiều vở tuồng rất có giá trị (bây giờ còn khai dụng) vừa là
nhà tổ chức, nhà đạo diễn tài giỏi, đưa nghệ thuật hát tuồng Việt nam lên đỉnh
cao. Cụ còn lưu lại nhiều thi phẩm chữ Hán và nôm đặc sắc.
- Cụ Tú Nhơn Ân cũng là soạn giả tuồng nổi danh,
soạn giả tuồng hát bội Ngũ Hổ Bình Tây (trước 1975 giáo sư Lê Ngọc Trụ sưu tập,
in ấn phổ biến).
- Cụ Nguyễn Trọng Trì tục gọi là cụ Nghè Trì ở
làng Vân sơn, An nhơn, văn võ song toàn, đã tham gia lực lượng chống Pháp dưới
sự lãnh đạo của anh hùng Mai Xuân Thưởng, bị Pháp bắt bỏ tù nhiều năm sau khi
nghĩa quân tan rã.
- Về sau còn có cụ Ðào Phan Duân, người quận Tuy
phước, một bậc khoa bảng, túc nho, làm quan Thượng thư dưới triều Khải Ðịnh và
Bảo Ðại.
- Thời tiền chiến, nhóm nhà thơ Bình
định gồm Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan được xem là nhóm thơ có
một sắc thái đặc biệt, mỗi nhà thơ trong nhóm lại có một cá tính riêng. Xuân
Diệu trưởng thành tại Bình định, và mặc dù không thuộc nhóm "Bàn thành tứ
hữu", quê mẹ cũng ghi dấu ấn sâu đậm trong thơ ông.
- Sau Hiệp định Genève, nhà thơ Lam
Giang và nhà văn Võ Phiến là hai cây bút làm hãnh diện những đồng hương Bình định.
Người Bình định từ xa xưa đã luôn
luôn chuộng đạo đức, lễ nghĩa và sự học vấn. Tại Bình định, trường thi được
thành lập từ năm Tự Ðức thứ tư (1851) để sĩ tử từ Quảng ngãi đến Bình thuận tề
tựu thi hương khỏi phải ra Huế. Trường thi nằm phía tây nam thành Bình định
(huyện An nhơn), xây bằng đá ong, chu vi khoảng 1000m, cao khoảng 2m. Ðó là một
nền lộ thiên ở giữa một dãy gò không cây cối. Ðến khoa thi, sĩ tử mang lều
chiếu tới che ngồi. Khoa đầu tiên (1852) người Quảng ngãi giật thủ khoa nên có
câu ca dao:
Tiếc công Bình
định xây thành
Ðể cho Quảng
ngãi vô giành thủ khoa.
Nhưng tiếp ba khoa sau (mỗi khoa cách nhau ba năm) ngôi thủ khoa đều về tay người Bình định, nên lại có câu:
Tiếc
công Quảng ngãi đường xa
Ðể cho Bình
định thủ khoa ba lần
Chẳng hiểu do đâu mà thế hệ con em chúng ta giờ đây hình như có mặc cảm... với tiếng nói của Bình định. Có lẽ chỉ có dân Bình định là hay dùng tiếng "nẫu". Nói là "dân xứ nẫu" thì ai cũng biết là dân Bình định. Ở đâu lại chẳng có những thổ âm,thổ ngữ, lại không có "tiếng nói đặc biệt" của địa phương. Người Bắc gọi là "họ", người Nam nói "người ta" thì người Bình định kêu là "nẫu". Ở nơi xa xôi nghìn dặm, nghe tiếng nói của đồng hương chắc ai cũng cảm thấy có chút thân thương trìu mến, có cái vui chân phương.
Thương chi cho
uổng công tình
Nẫu về xứ nẫu
bỏ mình bơ vơ!
Chữ "nẫu" trong câu này có cái hay riêng của nó, vừa thân tình, vừa thâm thúy. Từ chữ "nẫu" lại có chữ "nậu", nghĩa là những người ấy. Có ai tìm được chữ nào hay hơn để thay cho chữ "nậu" trong câu sau đây:
Ai về nhắn với
nậu nguồn
Măng le (hay
thơm ngon) gởi xuống, cá chuồn gởi lên.
Bạn nguồn? Người nguồn? Bọn nguồn? Không, không được và không bằng chữ "nậu", nhất định là phải giữ lại chữ "Nậu" cho câu trên.
Tôi đã cà kê kể lể khá dài dòng về
những chuyện to, chuyện nhỏ của Tây sơn - Bình định. Vẫn muốn kể thêm nhưng
thôi, vì sự đa ngôn thì đa... quá.
Ðã từ lâu tôi ít muốn nói về chuyện
Tây Sơn, chuyện lịch sử anh hùng dân tộc... bởi những chuyện ấy không đáp ứng
được những khát vọng nóng bỏng của mình trong giai đoạn lịch sử vừa qua. Năm
mươi năm qua thời thế không tạo được anh hùng và không có anh hùng để tạo thời
thế. Ðất nước, dân tộc... dậm chân tại chỗ, ngày nay vẫn như ngày nào! Ngày
nào, trong cảnh giam hãm tù đày, một con dân Tây sơn - Bình định da diết nhớ
thương Mẹ già, nhớ thương Quê hương, đồng hoá cả hai là một:
Quê nhà bóng xế ngả nhành dâu
Nhịp võng, lời ru chuyển điệu sầu
Trăng nước đâu còn trăng nước cũ
Khôn cầm giọt lệ giữa đêm thâu!
Sống ở miền Nam mà đêm đêm "Giấc hương quan luống ngẩn ngơ canh dài!"
Bây giờ thì Quê hương xa cách nghìn
trùng. Ở đây hoàng hôn xuống không thấy quê nhà ở đâu, đành phải kêu lên:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng
ai)
Người xưa bảo: "Tha phương ngộ cố tri" là một trong bốn điều vui mừng nhất của đời người. Có người chưa chịu bảo phải thêm trước câu trên hai chữ "vạn lý" mới "đã", mới thấm thía. Bây giờ trong cảnh "vạn lý tha phương ngộ cố tri", tôi thấy mừng và quí lắm. Và tôi lại viết về quê hương, viết về Tây Sơn, Bình định để tạ lòng cố tri và đáp tình đồng hương thân mến.
BTK
Xuân Ất Hợi 1995
Xuân Ất Hợi 1995
Xin lỗi.Vì có vài lỗi nên xin xoá nhận xét trước.
Trả lờiXóaCảm ơn tác giả, bài viết tổng hợp được nhiều tư liệu. " Ngọn tháp mồ côi nằm trên đường di Phù Cát" tên là Tháp Phú Lốc.
I./ Kính Bác Khán,
Trả lờiXóaNgót 40 năm, chưa được gặp Bác. Nhớ lại những năm 73,74 của TK trước, thỉnh thoảng cháu có đến nhà Bác để gặp Trần Đình Tòng, chỉ trông thấy chớ chưa lần nào dám hầu chuyện với Bác.
Rồi, mấy tháng trước, anh Huỳnh Hiến có nhắc đến Bác trong "Nhớ thầy nhớ bạn".
Nhớ lại mấy năm trước đây, được đọc bài viết của Bác trên trang nhà của Lê Bích Sơn ; giờ thấy bản này ở đây, Bác đã "tự ý đục bỏ" đôi chỗ,...
II./ Kính bác Khán cùng chư vị,
Trong bài viết, tác giả có đề cập đến truyền thuyết thầy "địa lý Tàu xúi nắn dòng sông Côn". Truyền thuyết này được lưu hành khá phổ biến, nhưng tôi thấy, xin được tham góp cùng Bác và chư vị như thế này:
1./ Việc sông Côn và sông Đá Hàn(g) thay đổi dòng chảy là có thiệt, như Bác Khán đã phân tách. Bàu Sen và bàu Bờ/Bà Lặn(g) là dấu vết còn lại của hai "khúc sông chết" đó. Cũng như xóm Chơn Tự thuộc làng Trinh Tường cho đến sau khi Việt Minh cướp chánh quyền là quá rõ. Một minh chứng nữa là khi VM cướp CQ, ông Nguyễn Cự là người ở xóm Chơn Tự, nhưng bấy giờ là Chủ tịch lâm thời UB HCKC xã Bình Tường, chính ông ta là người đã bắt giam toàn bộ nguỵ quyền hương lý của làng Trinh Tường, đứng đầu là ông xã trưởng Nguyễn Nãng.
2./ Sự thay đổi dòng chảy (Ăng-Lê hay Mẽo nẫu kêu là river realignment), đoạn qua huyện Bình Khê, của 2 con sông trên là một hiện tượng địa vật lý tự nhiên để loại bỏ uốn khúc và giảm chiều dài của sông. Học sinh Trung học Đệ I cấp trước đây cũng đã được học ở môn Vạn vật học rồi. Chư vị có thể coi thêm hình minh hoạ ở đây và ở đây
3./ Sở dĩ phải nói thêm (hơi bị dài dòng) như vậy, là để:
a./ Khẳng định việc thay đổi dòng chảy của hai khúc sông trên là một hiện tượng địa vật lý tự nhiên, không loại trừ khả năng do con người chỉnh trị, nhưng sự chỉnh trị đó của con người (có thể xảy ra dưới triều Tây Sơn) là hoàn toàn phù hợp với khoa học. Để loại bỏ uốn khúc và giảm chiều dài của sông, như vậy, tăng lưu tốc độ dòng sông. Khi lưu tốc của dòng sông được tăng lên, nước được cuốn trôi nhanh hơn, ngăn chặn được lũ lụt. Chứng tỏ tiền nhân ta đã biết ứng dụng khoa học vào thực tiễn.
b./ Ta phải bác bỏ truyền thuyết kia, vì nếu tin như vậy hoá ra nhà Tây Sơn và nhân dân Bình Khê ta lại khờ khạo để đi nghe theo lời xúi dại (về mặt phong thuỷ) hoặc tuy đúng về mặt khoa học nhưng lại quá tầm thường đến vậy sao!?
III./ Xin nói thêm một chút về chuyện " sách vở và báo chí":
Chư vị nghĩ sao khi sách báo, thậm chí là của cơ quan văn hoá và truyền thông chánh thống, của Bình Định viết rằng "Lăng Mai Xuân Thưởng ở xã Bình Hoà". Xin mời coi ở đây , ở đây và ở đây .
Cảm ơn gdptphuocson và BuuChau có góp ý cho bài viết.
Trả lờiXóaBài gởi đến cho Trang QTBK có yêu cầu ghi tắt tên người viết. BuuChau thật là tinh tế, đọc nhiều, biết nhiều về người của quê hương.
Tiêng phần BuuChau gọi là "tự đục bỏ" đôi chỗ. Không phải từ người gởi bài mà do admin thấy không cần thiết phải đăng đầy đủ đoạn ấy. Vì bài viết có giá trị, viết và đăng đã lâu, hẳn nhiều người đã đọc đã hiểu rõ sự việc ấy.
Nhân đây QTBK chân thành xin lỗi chú BTK.