Mùa xuân, tháng giêng
năm Bính Thìn, 1856, ta đi chơi núi Thủ Tiết gặp chuyện không vui. Đôi
vợ chồng nai đang âu yếm nhau nơi bờ suối Nước Reo, nghe tiếng
chân ta, một con ngoảnh nhìn, trợt chân rơi xuống bờ đá. Thấy con nai
còn lại đứng ngẩn ngơ nhìn bạn tình đã chết, ta nghe nhói đau, và nghĩ
đến nàng Khang. Con vật không nói ra lời được mà còn thế, huống hồ
con người là giống biết dùng bút mực để tả lại nỗi niềm ở trong
lòng. Không dám để con nai vừa mất bạn kịp oán hận mình, ta
vội quày gót.
Hoa thạch thiết đương
nở trắng hai bên bờ suối. Cứ nghĩ đến cái chết của nai, và nghĩ
đến nàng Khang. Núi Thủ Tiết vốn nổi tiếng về loài hoa thạch thiết,
thơm nhưng không tỏa ngát. Dừng lại một chút bên hoa, cái vô ảnh vô
hình chắt chiu từ mưa nắng người đời gọi là hương hoa ấy sẽ phút
chốc làm ta thấy bình tâm trước bao ngổn ngang của thế sự. Tương
truyền, lúc nàng Khang chưa mất thì chưa có hoa thạch thiết. Nước mắt
khóc bạn tình của Khang nhỏ xuống khiến đá động lòng muốn lưu lại
trần gian chút dấu tích, nên mới có loài hoa kia mọc trên đá.
Mùa xuân năm ấy hoa
thạch thiết nở muộn hơn mọi năm, giữa màu trắng tinh anh còn chen lẫn
những nụ xanh.
Cuối tháng giêng mà
khí rét mùa đông năm trước chưa dứt. Qua bến Ràng, nước suối Nước Reo
vẫn còn làm buốt chân. Hồi cha ta còn sống, ta có hỏi thử sao cái
bến suối ấy lại gọi bến Ràng. Dòng máu cày cuốc mấy chục đời
truyền đến cha ta cũng chỉ cho ông đủ sức giảng giải theo cách nôm na
: có nhiều loài dây rừng bò ràng rịt qua bến nước nên gọi bến Ràng.
Tạo hóa cũng thật lạ lùng. Đám dây rừng bò qua suối nước, đám lá
rừng trôi đến đó bị ngản lại, tạo nên chốn giang sơn cho loài
cá nép. Bạn ta là Vũ Huýnh, làm quan ở kinh sư, có lần về Lâm
Thượng, cha ta cho ăn cá nép kho hành. Cơm nước xong, Huýnh kêu riêng ta
: Ở đâu ra thứ cá ấy, kiếm một ít để đem về ngoài đó, được không ?
Ta nói : Ở kinh đô lắm sơn hào hải vị, đem thứ cá đen điu về ngoài ấy,
không khéo bạn bè Vũ huynh lại chê cười xứ Lâm Thượng của ta? Do sống
dưới lớp lá mục lâu ngày, da cá nép đen bóng, nhưng ăn lại nghe thơm
mùi thơm của núi rừng sau cơn mưa buổi sớm. Huýnh đã đòi đi núi Thủ
Tiết khi nghe kể lai lịch của loài cá nép. Đến suối Nước Reo, nghe ta
kể chuyện nàng Khang ngồi ngóng bạn tình ở dốc Đợi, lại đòi đi
tiếp. Nhưng vừa qua khỏi bến Ràng, Huýnh vấp dây rừng, ngã, trặc chân,
bọn ta phải quay về. Sáng ấy, trên đường lên Cổng Trời, ta cũng vấp
dây rừng, nhưng chưa ngã. Trong bài đi chơi núi Phật Tích của Phạm Sư
Mạnh có câu Từ thị quái kỳ hưu thuyết trước .Thôi,
đừng nói chuyện quái đản về họ Từ nữa. Ta cũng biết chuyện tình
duyên của nàng Khang là chuyện ngàn năm trước, cũng hư ảo, mông lung
như cuộc kỳ tình Từ Thức, Giáng Hương. Dây dang rừng cứa chân ta, máu
chảy. Nhưng ta thì cứ nghĩ đến cái chết của nai, nghĩ đến nàng Khang.
Đường lên Cổng Trời một bên là suối Nước Reo, một bên là núi. Đi chơi
núi có cái thú một buổi đường lội qua bao nhiêu bến nước của một dòng
suối mà cứ ngỡ là đã vượt qua bao nhiêu sông suối. Đường lên Cổng Trời
phải lội qua suối Nước Reo năm lượt. Cũng cùng con nước ấy, nhưng mỗi
lần qua suối Nước Reo, ta lại hiểu thêm về sự kỳ công của tạo hóa.
Có lần cha ta bảo Cổng Trời có tự buổi khai thiên lập địa. Hồi ấy
còn nhỏ, đâu biết nghĩ ngợi, giờ mới thấy giật mình. Lời mộc mạc
của kẻ cầm cày cuốc mà thâu tóm được cả cuộc hình thành của núi
sông. Sáng ấy ta muốn lên tận Cổng Trời là chỗ cao nhất của núi, để
thăm lại nơi xưa kia người bạn tình của nàng Khang đã nằm xuống. Con
người ta có những phút thật lạ kỳ, bỗng rũ sạch hết những phiền
tạp của cuộc mưu cầu áo cơm. Lá rừng tháng giêng khoe sắc giữa lồng
lộng thanh cao. Nắng không tị hiềm nhau. Gió không lớn tiếng nhau. Ta
lắng nghe kỹ thì không phải tiếng chim Vướt. Có người con gái ngồi
nơi dốc Đợi, tóc xỏa kín lưng, lúc ta đến ngồi bên thì khẽ nghiêng
đầu sang, nhắc lại lời vừa buột ra trước đó : Anh đi tìm em đó ư? Cứ
để cho nàng vục đầu vào ngực ta, thổn thức, còn ta thì nín lặng,
nhìn lên Cổng Trời, thấy tựa hồ chốn điện các của các bậc đế
vương, rồi vội nhắm mắt, thôi nghĩ, vì cứ sợ mất đi phút ảo mộng
tuyệt vời chẳng thể tìm lại giữa chốn trần gian ô trọc.
Viết tại làng Lâm
Thượng năm mậu ngọ, 1858, cử nhân Nguyễn Cửu Kế .
Chú thích một : Núi
Thủ Tiết nằm ở phía tây làng Lâm thượng. Xưa, có người con gái tên
nàng Khang lên núi ấy ngồi chờ người con trai đã đính hôn với mình.
Biết không bao giờ gặp nữa nhưng vẫn cứ chờ. Vì người con trai đi đốn
củi ở má núi bên kia, khi gánh củi lên đến đỉnh núi, để qua bên này
trở về làng, thì vấp chân ngã, chết. Bao nhiêu người khuyên nhủ, nhưng
nàng Khang vẫn ngồi chờ cho đến chết. Do vậy, mới có tên núi Thủ
Tiết. Chỗ nàng Khang ngồi chờ bạn tình gọi là dốc Đợi. Đỉnh núi
gọi là Cổng Trời.
Chú thích hai :
Bài ký viết năm mậu ngọ 1858 tức năm Tự Đức thứ mười một. Viết
xong, Nguyễn Cửu Kế có gửi cho bạn thân Vũ Huýnh đọc thử. Bấy giờ
Huýnh vừa được thăng tả tham tri ở bộ Lễ là quan nhị phẩm ở triều.
Đọc xong, Huýnh đã gửi thư cho Kế : Việc triều trăm thứ, nhưng
nhận được trước tác của Nguyễn huynh, phải đọc thôi. Lúc ấy có quan
giáo thụ Lê Thặng ở Hải Dương về bộ Lễ thỉnh ý về việc lập nhà
khuyến học ở địa phương, ta đã đem bài ký đọc cho Thặng cùng nghe.
Vừa nghe xong, Thặng lắc đầu, kêu là văn chương đồi bại. Chẳng lẽ lúc
ấy ta lại đi chia xẻ với Thặng sự đồng cảm của mình. Nay viết thư
cho Nguyễn huynh , nói rõ chánh kiến của mình về Bài Ký Núi Thủ
Tiết. Điều mừng cho Nguyễn huynh là cáo quan về sống ở chốn cư
thôn heo hút mà vẫn giữ được tấm lòng với nền văn chương
nước nhà. Nhưng chỗ làm ta vô cùng thất vọng là chỉ phút chốc đã
làm hoen ố công kinh sử của Nguyễn huynh. Kẻ sĩ theo đạo thánh hiền
là cả đời phải đem lập thuyết cao sâu của thánh nhân ra truyền bá
trong thiên hạ. Đằng này, Nguyễn huynh lại đi cho một thanh niên đời nay
yêu một phụ nữ chết ngàn năm trước, tức đi yêu một bà lão có
ngàn tuổi đời. Cho nên, lúc nghe xong bài ký, quan giáo thụ Hải Dương
có buông lời ấy cũng phải. Rất mong Nguyễn huynh vì chỗ bè bạn chí
thiết cho Huýnh này được nói thẳng . Theo lời kể lại, lúc
Kế được thư Huýnh thì có người bạn ở kinh sư đương ở chơi nhà mình,
anh ta nói có biết rõ về quan tham tri Vũ Huýnh. Kế bảo : Bạn
học thời thơ ấu của ta đó . Giờ thì những lời ái quốc trung quân
mòn sáo ở triều đã làm hỏng anh ta. Rồi hứng thú viết tiếp bài ký
đi chơi núi Thủ Tiết, về sau có người gọi là Bài Ký Núi Thủ Tiết
thứ hai của Nguyễn Cửu Kế :
Mùa xuân, tháng giêng
năm Bính Thìn, ta đi chơi núi Thủ Tiết, gặp được nàng Khang. Trong
phút ảo mộng kỳ tình, ta mới thấy tin lời truyền tụng của người
đời là thật. Tóc của Khang dài phủ kín lưng, rồi trải ra trên đất.
Nằm giữa mưa nắng thiên thu mà vẫn còn nguyên màu xuân thì son
sắc. Ta nhắm mắt, thôi nghĩ, và chỉ còn nghe mùi trinh bạch hiển
hiện giữa cõi giao hòa giữa mộng và thực. Có chim Vướt nhìn thấy.
Có cây rừng làm chứng. Trở xuống núi, ta vui sướng mang theo niềm vui
cả đời chưa hề dám nghĩ đến. Ông Chín Huấn đang chăn dê ở chân núi,
thấy ta liền hỏi : Sao thầy cử đi chơi núi kỳ này không thấy mang về
hoa thạch thiết ? Ta nói : Mùa đông năm qua lạnh quá, đến giờ hoa
thạch thiết nở cũng chưa hết. Ông Huấn nhìn lên núi : Tương truyền,
lúc nàng Khang chết, trời cũng lạnh ghê gớm như mùa đông vừa rồi.
Nhờ khí lạnh mà lúc tìm thấy xác, nàng Khang như đương nằm ngủ. Ta
hoảng lắm, vì cứ sợ ông Huấn thấy được những gì đương diễn ra trong
lòng mình. Ở làng Lâm Thượng, ông Chín Huấn thuộc bậc cao niên, hồi
nhỏ có học võ vẽ nho học, hiền lành, nhưng giữ đạo thánh hiền rất
mực, nhà nghèo, sống nhờ vào đàn dê chăn thả ở chân núi Thủ Tiết.
Ta lo lắm. Vì ông Huấn mà biết được chuyện vừa xảy ra, nhất định sẽ
bảo ta là đầu mối của loạn luân, đồi bại. Xưa, Đỗ Mục đi chơi đất
Hồ Châu, gặp cô gái mười tuổi, bèn đem vàng lụa đính ước, hẹn mười
năm sau trở lại đón. Họ Đỗ dám đi yêu cô gái đến mười năm sau mới
thành con gái. Sao ta lại không dám yêu nàng Khang ngàn năm trước đã
là người con gái tiết hạnh có một không hai trên đời ?
Nguyễn Thanh Hiện 1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét