Đói
lòng ăn nửa trái sim,
Uống
lưng bát nước đi tìm người thương...
Đi tìm người thương mà chỉ ăn nửa
trái sim, uống lưng bát nước !? Hẳn không phải là ăn uống kiểu cầm hơi lấy sức,
tiết kiệm lương phạn để đủ đi tiếp trên con đường dài dằng dặc. Mà phải chăng nửa
trái sim nửa lưng bát nước còn lại kia là để dành riêng cho một nửa kia của
mình khi đã tìm thấy được nhau (!?).
Trong kiểu sống
xô bồ giành giật ngày nay, tâm tình chia sẻ đó nó đẹp giống như “ca dao” và chắc
chỉ có ở trong “chuyện đời xưa”.
Ngày nay với điều kiện phổ biến công nghệ thông tin, được
cũng lắm mà mang đến cũng lắm chuyện trái khoáy. Chỉ cần một chút táy máy, vô
tâm của anh chàng đánh máy là tâm tình của kẻ ăn nửa trái sim kia bị đánh cắp một
cách phũ phàng.
Bắt đầu là chuyện Cây cầu Đồng
Sim, cũng là chuyện từ nửa trái sim của câu ca dao. Một người Thầy đa tài của đất
Phú Phong đã thi vị hóa tên cây cầu trên đường 19 đoạn qua huyện Tây Sơn bây giờ
bằng bài thơ :
" Xưa ai ăn nửa trái sim
Uống
lưng bầu nước đi tìm người ta
Đồng
gần đến tận rừng xa
Nửa
sim còn lại rớt ra hóa cầu" …
(Thơ Nguyễn Đình
Lương)
Đồng gần cho tới tận rừng xa, tìm em
chẳng thấy nên nửa trái sim còn lại đấy đắng lòng rơi rớt xuống hóa thành cây cầu
mang tên nó : cầu Đồng Sim. Cầu Đồng Sim nối liền thôn Phú An và Phú Xuân của
xã Tây Xuân huyện Tây Sơn (ngày xưa thuộc xã Bình Phú huyện Bình Khê). Trước xa
mấy trăm năm trước, nó là cửa sông của con sông Đá Hàng từ Hầm Hô chảy ra giáp
với con sông Côn từ Vĩnh Thạnh chảy xuống.
Cái tên Đồng Sim nó mộc mạc, nhưng
nó đẹp và gần gũi trong lòng người địa phương, giống tên của các cánh đồng lân
cận như Đồng Le, Đồng Tre, Đồng Tràm, Đồng Trâm… Nhưng sau 1975 chẳng mấy năm,
mấy anh công nhân cầu đường mang trong mình cái máu “sờ nặng sờ nhẹ”, “nờ cao nờ
thấp” đã gắn cái biển tên cầu bằng một cái tên khác không còn mang ý nghĩa ban
đầu của nó : “Cầu Đồng Xiêm”.
Từ đấy về sau mấy anh nhà báo cũng
mắt nhắm mắt mở xác định đây là Cầu Đồng Xiêm, hòn núi trong vùng cũng gán cho
cái tên là “Núi Đồng Xiêm”. Mấy sấp nhỏ xa quê bây giờ làm thơ cho quê hương
cũng hồn nhiên gọi nơi đó là Đồng Xiêm. Và bây giờ cái tên Đồng Xiêm hầu như đã
chết tên với cây cầu nầy. Chẳng có ai còn quan tâm tới cái tên Đồng Sim thuở nọ.
Thời đại công nghệ thông tin chỉ
biết cọp pi và dán, nên trong vùng đất khoe danh
“đất võ trời văn” nầy cũng thêm chuyện buồn cười liên quan tới Lăng của Mai
Xuân Thưởng, người ứng nghĩa Cần vương chống Pháp quãng năm 1885. Hình như khởi
đầu từ số báo binhdinh.com ngày 20.12.2006. Anh chàng đánh máy nào đó trích từ
Địa Chí Bình Định đã gõ rằng lăng của cụ Mai nằm ở xã Bình Hòa. Hiện nay không
dưới 10 trang mạng chuyên copy and paste đã đăng tải với thông tin y hệt. Trong
khi đó người địa phương biết tỏng là lăng Mai Xuân Thưởng nằm ở bên cạnh đường
19, thuộc thôn Hòa Sơn xã Bình Tường chớ không phải Bình Hòa, vậy mà cũng đành
bó tay, la thì la chớ chẳng suy suyển gì khi báo đã lên khuôn.
Cũng sự việc liên quan đến cụ Mai.
Theo một vài ý kiến của người đời nay (có học hàm) đã bác bỏ sử liệu cũ là cụ
Mai ra nộp mình cho Pháp (bỡi vì Pháp bắt dân làng và mẹ của cụ, uy hiếp đem
chém nếu không ra đầu thú). Họ khẳng định là cụ Mai bị bắt trên đường trốn vào
Phú Yên tiếp tục kháng chiến, Nếu có tin ý nầy là đúng cũng chưa dám vội tin,
vì phần sưu khảo chưa đủ độ tin cậy, liệt kê ngày tháng mà cũng không đúng phép
làm lịch, thể hiện sự thiếu cẩn trọng. Nguyên văn đoạn liệt kê được trích dẫn
trên Wikipedia như sau (tiêu đề Mai Xuân
Thưởng, mục Thân Thế Sự Nghiệp) :
…
“Lúc ấy, Mai Xuân Thưởng có năm mươi người đi theo ông, trong đó có toàn bộ gia
đình của ông: mẹ, vợ và những người phụ tá, kể cả em của ông. Ngày 4 tháng 4, cả
nhóm bị vây hãm trong một làng Chàm (có thể là Vân Canh), nhưng sau đó chạy
thoát. Ngày 21 tháng 4 gia đình Mai Xuân Thưởng bị bắt, nhưng ngay đêm hôm sau
ông Thưởng lại giải thoát được. Nhưng, đêm 31 tháng 4
rạng ngày 1 tháng 5, một trong những thủ hạ của Mai Xuân Thưởng bị bắt làm tù
binh, đã chịu hàng và chỉ chỗ ở những người đang chạy trốn”…
Lưu ý câu trích dẫn là đêm 31
tháng 4. Chắc chắn một điều là tháng 4 chỉ có 30 ngày không bao giờ có ngày thứ
31. Thế mà hiện nay cũng không dưới 10 trang mạng dẫn lời trích nầy nguyên xi
(không điều chỉnh) để chứng minh cho những sự kiện liên quan tới Phong trào Cần
vương ở Bình Định và Phú Yên. (Có lẽ Wikipedia trích dẫn từ báo binhdinh.com số
ngày 19.4.2007 bài Tư Liệu Mới Về Cái Chết Của Mai Xuân Thưởng).
Chuyện đã 100 năm hơn, đúng sai
còn phải bình tâm xem xét. Huống hồ chỉ mới đây, ngày 30.4.1975 chiếc xe tăng
mang số hiệu nào đầu tiên tiến vào dinh Độc Lập đã một thời còn giành nhau, to
tiếng với nhau. Trận cãi nhau đó chắc sẽ không kết thúc nếu không có nữ nhà báo
Pháp Françoise Demulder (có mặt trong thời khắc lịch sử ấy đã ghi lại được hình
ảnh) đưa ảnh ra chứng minh chiếc tăng 390 đã húc đổ cổng chính, tiến vào dinh Độc
Lập đầu tiên chứ không phải là chiếc mang số hiệu 843 (còn đang loay hoay ở cổng
phụ).
"Đói lòng ăn nửa trái sim / uống
lưng bát nước đi
tìm người thương". Thiệt là phũ phàng nếu khi “người thương” tháo voan che
mặt ra thì lại không phải là nửa kia của mình. Thôi thì cứ chấp nhận là duyên
là nợ. Cũng chỉ bỡi vì ông tơ bà nguyệt là anh chàng đánh máy vô tâm đã để xảy
ra chuyện đen hóa trắng, chuyện trắng hóa đen…
HoaiAn
.
Sinh ra ở đất Tây Sơn
Trả lờiXóaThân mang gió bụi nặng tình nước
(Hoàng Nhã phóng tác )