Những
năm đầu thế kỷ trước, địa giới của tổng Vĩnh Thạnh, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định
bao gồm phần đất cả huyện Vĩnh Thạnh, cộng với phần đất xã Tây Giang, xã Bình
Tường của huyện Tây Sơn ngày nay. Tổng
là một đơn vị hành chánh xưa, là cấp trung gian giữa huyện và làng xã. Tương
đương với cấp Tổng là Thuộc. Thuộc là
đơn vị hành chánh bao gồm những ấp, thôn, phường, nậu, man ở vùng ven biển hay
miền núi mới vừa khai phá. Tên gọi của nó được bảo lưu từ thời các chúa Trịnh -
Nguyễn, dùng để phân biệt với Tổng gồm những thôn, ấp đã được định cư lâu đời.
Thuộc còn được dùng để gọi cấp hành chính người Minh Hương - người Hoa sống
trên đất Việt gồm có Trang (làng), Thuộc (tổng), Bang (huyện).
Năm
1832, vua Minh Mệnh thực hiện cải cách hành chánh toàn quốc, Trấn Bình Định được
chuyển gọi thành Tỉnh Bình Định. Các Ấp trong Trấn cũng được đổi tên, sáp nhập
hoặc tách lập thành thôn xã mới. Trong những năm đó, ấp Vĩnh Long được cải tên
là thôn Vĩnh Thạnh, các ấp Tả Chi Nhất, Tả Chi Nhị, Tả Chi Tam đổi thành các
thôn Tả Giang, Hữu Giang, Thượng Giang, Kiên Thành ấp đổi làm Phú Lạc thôn, Phú
An khách hộ ấp đổi làm Phú Phong thôn, Triều Nghi khách hộ ấp cải làm Lai Nghi
thôn… Năm 1839, sau khi thi hành chính sách quân điền tại Bình Định, địa bạ ở
đây cho thấy thôn Vĩnh Thạnh với 45 thôn khác như Thượng Giang, Hữu Giang,
Trinh Tường, Phú Lạc, Kiên Mỹ, Kiên Long, Mỹ Thạch, Mỹ Yên, Tân Đức, Tân Nghi…
cùng nằm trong tổng Thời Hòa, là một trong hai tổng của huyện Tuy Viễn (Phú
Phong thôn, Lai Nghi thôn lúc đó lại nằm trong Thời Đôn tổng).
Đến
năm 1841, hai tổng Thời Đôn và Thời Hòa của Tuy Viễn phân ra làm 4 tổng với các
tên gọi mới là Phú Phong, Mỹ Thuận, Nhơn Ngãi và An Ngãi. Thôn Vĩnh Thạnh trực
thuộc Tổng Phú Phong. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, vào năm Đồng Khánh thứ 3
(1888), triều đình Huế trích lấy 10 thôn của tổng Phú Phong, 8 thôn của tổng Mỹ
Thuận, cộng với 28 thôn mới mộ khẩn của vùng cao nguyên (Tây Sơn thượng đạo cũ)
để lập nên huyện Bình Khê, thống hạt 4 tổng là An Khê, Tân Phong (hiện nay thuộc
An Khê - tỉnh Gia Lai), Vĩnh Thạnh và Thuận Tuyên (Thuận Đức!?). Theo Địa Chí
Bình Định, tổng Vĩnh Thạnh lúc ấy có 10 thôn xã là Thạch Quang, Vĩnh Khương,
Vĩnh Thạnh, Định Thành, Định Quang, Tiên Thuận, Thượng Giang, Hữu Giang, Tả
Giang và Trinh Tường. Có nghĩa là tổng Vĩnh Thạnh thời ấy có địa giới từ cầu
Phú Phong trên Quốc lộ 19 hiện nay trở ngược lên đến huyện Vĩnh Thạnh bây giờ.
Đầu
thế kỷ 20, người Pháp tiếng là bảo hộ Việt Nam, nhưng thâm tâm đẩy mạnh chính
sách thực dân, khai thác thuộc địa. Triều đình nhà Nguyễn vừa đàn áp xong phong
trào Cần vương cùng Văn thân thì tài chánh kiệt quệ, phải bán tước bán hàm lấy
làm quốc khố, không chăm lo được đời sống tứ dân. Dân tình khốn đốn vì sưu cao
thuế nặng. Trong khi đó tư tưởng dân quyền đã nhen nhóm trong hàng ngũ Khoa bảng,
lan truyền xuống tới giới Xã hương. Bên cạnh đó, trước thành
quả canh tân của Nhật Bản cũng như các hoạt động cải cách đang, đã diễn ra ở
Trung Hoa (chính biến Mậu Tuất 1898), không thể chậm trễ, một số nhà nho Việt
Nam hăng hái thực hiện công cuộc khai dân
trí, chấn dân khí, tổ chức cải cách - duy tân ở đất nước mình.
Các chính sách sưu thuế, sự dung
túng cường quyền hà hiếp… đã làm
cho người dân bấy lâu ngày càng khổ cực.
Rồi như đổ thêm dầu vào lửa, ngày 31/12/1907 Toàn Quyền Đông Dương ra nghị định
quy định lại chế độ đi sưu: Trong số 10 ngày đi làm xâu của dân đinh Trung kỳ,
chỉ 2 ngày làm việc làng (hàng xã), còn 8 ngày phải ứng dịch làm cho hàng tỉnh…
Thuế điền thổ theo quy định cũng tăng 5%. Đây là tiêu đích mà các nhà duy tân
nhắm vào chỉ trích, để khơi dậy lòng phẫn nộ trong dân chúng. Khi đại đa số người
dân đã thức tỉnh, việc đến sẽ đến. Đầu năm 1908, Phong trào Xin sưu Kháng thuế
nổ ra, khởi đầu tại Quảng Nam rồi đi lần vô Bình Định.
Phong trào xin sưu (xâu) kháng thuế
kéo dài mấy tháng liền suốt dọc dãy miền Trung, đã làm kinh thiên động địa cả
triều đình Huế, quan chức bảo hộ người Pháp ăn cũng không ngon, ngủ cũng không
yên. Người đời đã gọi phong trào nầy là Dân
biến Trung Kỳ, còn triều đình nhà Nguyễn thời ấy đã gọi những người dân
chân lấm tay bùn đang đòi quyền sống đó là giặc: Giặc Đồng Bào.
Vào tháng 4 năm 1908, dưới sự điều
động của Chánh tổng Vĩnh Thạnh là Chánh Tổng
Kham, dân đinh các thôn xã của tổng này đã kết hợp với người dân trong các
tổng, huyện khác cùng kéo xuống tỉnh thành Bình Định xin giảm số ngày sưu dịch,
giảm thuế điền thổ.
Thời ấy người đứng đầu của cấp tổng
gọi là Cai tổng hay Chánh tổng, có Phó tổng trợ giúp. Người đứng đầu làng xã là
Lý trưởng (Xã trưởng) được dân bầu ra. Người đứng đầu các phủ, huyện như Tri phủ
- Tri huyện thì được triều đình bổ nhiệm. Còn Chánh tổng thì Tri phủ hoặc Tri
huyện căn cứ vào tài năng, đức độ của người trong hạt mà đề đạt lên cho quan đầu
tỉnh giao trọng trách. Chánh tổng là cánh tay vươn dài của phủ huyện vươn tới
xã thôn. Nhiệm vụ của Tổng là thúc lương tiền, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức
tuần phòng trộm cướp ở các xã thôn trên địa bàn. Có lẽ với nhiệm vụ, vị trí nầy
mà Chánh tổng cũng như Lý trưởng được dân tin cậy, dân dễ dàng nghe theo lệnh
điều động đi đòi giảm thuế, bỏ sưu thưở ấy.
Chánh Tổng
Kham người làng Thượng Giang, tên thật là Nguyễn Hàm, người Bình Định ngày
trước thường gọi tên một ai đó bằng tên người con trưởng của họ. Chưa rõ năm
sinh, năm mất của ông, chỉ biết ngày kỵ của ông là ngày 4/5 ÂL hằng năm. Mộ phần
của ông hiện nằm ở gò đồi sát bên bờ Bàu Hóc Yến - thôn Thượng Giang, xã Tây
Giang ngày nay. Hóc Yến là địa danh đã đi vào sử sách, là nơi mà Nghĩa quân Tây
Sơn thời khởi nghĩa đã hội binh, được Nguyễn Nhạc ban yến tiệc trước khi xuất
quân tiến đánh xuống Tuy Viễn, Quy Nhơn; để rồi sau đó vào Nam ra Bắc đánh tan
quân Xiêm, đại phá quân Thanh, lập nên công trạng hiển hách của Nhà Tây Sơn.
Cụ Chánh Tổng là con thứ bảy của
Tú Tài Nguyễn Chơn. Hồi ấy Thượng Giang có hai ông Tú tài cùng đều họ Nguyễn,
dân địa phương thân thiện gọi là Tú Bốn
và Tú Năm. Tú Năm chính là người cha
của ông Chánh tổng đã dắt dân làm “giặc đồng
bào” năm 1908. Còn Tú Bốn là cha vợ của Cụ Nghè Trì.
Cụ Nghè Nguyễn Trọng Trì người
thôn Vân Sơn tổng An Ngãi (nay là xã Nhơn Hậu, An Nhơn), là người đã ứng nghĩa
Cần vương, làm Hiệp Trấn căn cứ Thứ Hương Sơn (Kiên Thạnh - Bình Hòa) của nghĩa
binh Mai Xuân Thưởng năm 1885 - 1887. Khi phong trào Cần vương ở Bình Định tan
vỡ, cụ Mai cùng một số tướng lĩnh bị xử chém ở Gò Chàm năm 1887, cụ Nghè Trì trốn
về quê vợ Thượng Giang ẩn náu. Đến năm 1895, vua Thành Thái cho bãi lệnh truy tầm
dư đảng Cần vương, cụ Nghè mới trở lại được quê nhà Vân Sơn. Trong thời gian
nương náu ở Thượng Giang, cụ Nghè lúc thì qua Thuận Ninh, lúc thì lên Vĩnh Thạnh…
để lẩn tránh sự truy lùng của triều đình. Làng Thượng Giang, làng Vĩnh Thạnh bấy
giờ thuộc huyện mới lập Bình Khê. Chưa xác định rõ tổng Vĩnh Thạnh lúc nầy ai
làm Chánh tổng. Nhưng chắc có lẽ bấy giờ cụ Nghè Trì đã được gia đình cụ Tú Năm
bảo bọc, che giấu. Vì cụ Tú Năm thời ấy là một nhân sĩ có vai vế, tiếng nói có
trọng lượng với hương chức ở địa phương.
Vào thời Tự Đức, cụ Tú Năm Nguyễn
Chơn được sung vào quân thứ sơn phòng, tham gia lực lượng ngăn chặn sự quấy nhiễu
của tộc thiểu số Đá Vách. Các vị cao niên trong dòng tộc kể lại rằng cụ chịu
trách nhiệm quân thứ ở An Lão, đã thực hiện được một số nhiệm vụ, tạo ổn định
trong cuộc đối đầu với giặc Đá Vách -
Hré, nên sau được triều đình ban hàm Hàn Lâm Đãi Chiếu. Có phải chăng cụ chính
là một trong những người đã có công xây dựng đoạn Trường lũy ở An Lão, một phần
của Trường lũy Quảng Ngãi - Bình Định mà mới đây các nhà khảo cổ đã ra công khảo
cứu. Có câu chuyện được kể lại rằng, khi từ sơn phòng hồi hương, cụ có đem về một
ông voi trắng rất hiền hậu. Sau Tổng đốc Bình Định đến xin, rất mến thương voi,
nhưng cụ đành phải cống cho quan trên.
Cũng theo các vị cao niên ở Thượng
Giang kể lại, Chánh tổng Vĩnh Thạnh thuở 1908 ấy, cụ Chánh Tổng Kham là người hào sảng, có dáng phương phi, ăn to, nói lớn.
Ăn thì ăn được cả phần ăn ba người, còn tiếng nói thì sang sảng. Điều động cuộc
kháng thuế, ông chỉ hô lên một tiếng là dân binh răm rắp vào hàng thẳng tiến đến
Thành Bình Định. Có thể nói Chánh Tổng
Kham, với vị trí của ông, ông là một trong những người đứng đầu sóng ngọn
gió trong phong trào Dân biến 1908 ở Bình Định. Lực lượng nông dân biểu tình thời
ấy, có ngày được các Lý trưởng, Chánh tổng huy động đến cả vạn người, kéo nhau
vây kín các phủ đường. Pháp phải điều động 2 đại đội lính Âu từ Bắc vào để giải
tỏa, đàn áp.
Cuộc khởi dậy của những người dân
tay lấm chân bùn bị súng ống, lưỡi lê trấn áp. Phó soái của Cần vương Phú Yên
trước đây là Bùi Giảng, sau ra đầu thú với Pháp, nhận Trần Bá Lộc (là người chỉ
huy phá vỡ phong trào Cần vương ở Bình Định, Phú Yên) làm cha nuôi, được phong
tri huyện, hiện làm Án sát đích thân lên thành cầm súng bắn thẳng vào đám dân
áo lá nón cời đang ngồi ngay ngắn đòi hỏi triều đình giảm sưu giảm thuế cho họ. Nhờ “công trạng” giết đồng bào ấy
mà Bùi Giảng được Pháp để mắt đến, năm 1916 được cất nhắc lên Tổng đốc Bình Phú
(Bình Định – Phú Yên). Dân biến vỡ tan, Tổng đốc Tôn Thất Đạm bị triệt chức vì
ông dám ngăn cản Công sứ Pháp xử chém dân vô tội vạ. Tham tri bộ Hình Bùi Xuân
Huyến lãnh Tổng đốc Bình Phú, cùng Bùi Giảng trực tiếp làm án xét xử giặc “Đồng Bào” - giặc có cùng chung một bọc mẹ
sinh ra. Trung Kỳ Dân Biến Thủy Mạt Ký
của Phan Châu Trinh ghi nhận tình hình Bình Định lúc ấy: “…Quan kế nhiệm theo chỉ thị thêu dệt, cho chém giết nhiều. Thảm thay.”
Dân biến Bình Định có đến nghìn
người bị bắt, 101 người bị phạt thành án. Chánh tổng Vĩnh Thạnh Nguyễn Hàm là một
trong số 9, 10 người ở Bình Định bị án xử đày khổ sai ở Côn đảo. Theo Thi Tù Tùng Thoại của Huỳnh Thúc Kháng, Chánh tổng Nguyễn Hàm
ra đảo khoảng gần giữa năm 1909, người Bình Định cùng chuyến đi này còn có Trùm
Lập, Phó Khả, Tú tài Nguyễn Duy Viên, Nho sĩ Nguyễn Tuấn (còn tù Bình Định khác
như Nho sinh Hồ Như Ý, Hương Đôn, Danh Chì, Danh Tính ra Côn đảo từ đợt trước,
cùng chuyến với cụ Huỳnh vào tháng 8 năm 1908).
Người Pháp thiết lập nhà tù Côn đảo
từ năm 1862. Đến năm 1884, người Pháp chính thức được công nhận quyền bảo hộ ở
Trung Kỳ cũng như Bắc Kỳ thông qua Hiệp ước Patenôtre, nên kể từ đây Côn đảo có
thể đón nhận những người tù đến từ 2 vùng còn thuộc quyền cai trị này của Nam
triều. Qua vậy, Chánh tổng Kham cùng những bạn tù trong đợt Bình Định Dân biến
1908, họ được xem như là những người tù đầu tiên của đất Bình Định trên Côn đảo.
Án đày Côn đảo trong đợt dân biến ở
Trung Kỳ năm ấy đa phần là những vị khoa bảng, văn hào như Phan Châu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng, Tiểu La Nguyễn Thành, Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh… Chánh tổng Nguyễn
Hàm chỉ là một hào lý, ông không biết xướng họa, vịnh thơ cùng với bạn tù để được
có tên có tuổi chép trong Thi Tù Tùng Thoại.
Dù vậy, ông có vinh dự được đứng chung với nhóm tù “quốc sự” đã từng làm đau đầu
cả triều đình Huế một thời.
Tù quốc sự thời Dân biến ở Côn đảo
được bọn cai ngục gọi chung là “tù quan to”. Vì mang chữ nghĩa trong mình nên
các vị tù quan to không ưa cách bắt buộc thưa bẩm trong tù giống kiểu quan trường,
như Cai tù phải gọi thưa bằng Chú, Đội bằng Thầy, Quản thì bẩm Ông… Cũng vì thế
mà mã tà coi ngục thường huấn luyện
các vị tù quan to phải thưa phải bẩm cho lễ
độ (!?).
Thi Tù Tùng Thoại có kể lại:
Một ngày nọ,
có một chú mã tà nhỏ tuổi coi xâu đập đá thấy “tụi quan to” đập đá ươn quá, tay cầm cây roi mây đi tự đầu này đến đầu kia hỏi từng
người:
-
Mày cái gì?
-
Bẩm cử nhân. Chú cho một roi.
-
Còn lão nầy cái gì?
-
Bẩm Tiến sĩ.
Khi
bẩm có bộ cười, chú ta cũng cho một roi khá đau và bảo: “Mày ăn nói vô lễ, cho một roi từ rày về sau
biết tay tao!” Rồi Ấm sanh, Tú tài đều
được thưởng ngọn roi ấy, duy có người xưng Chánh tổng được khỏi roi.
Theo cụ Huỳnh thì người trong Nam
(chỉ các cai ngục) không biết khoa giáp là gì, nên trọng Chánh phó tổng hơn các
vị khoa bảng. Nhưng chính các vị khoa bảng trói gà không chặt như các cụ cũng
thầm phục mấy ông Trùm, mấy ông Chánh phó tổng Bình Định bạn tù. Đi làm xâu dọn tàu, chuyển hàng hóa từ tàu vào đảo,
mấy vị khoa bảng vác bao cá khô mà hai ba
người cùng tha như kiến tha thằn lằn. Sóng vỗ té lên té xuống ướt như chuột lột.
Trong khi đó bạn tù Bình Định vác bao gạo trên vai cả trăm ký lô mà vẫn đi như
không.
Chánh tổng Nguyễn Hàm ở Côn đảo,
trong Thi Tù Tùng Thoại cụ Huỳnh
không có nhắc đến tên của ông trong những dật sự, như đã nhắc đến bạn tù người
Bình Định là Tú tài Nguyễn Duy Viên. Trong những cuộc bạo động, đại biến tù
nhân giết cai ngục cũng không thấy cụ Huỳnh nêu ra những cái tên là ai. Trong
khi đó cụ Chánh tổng Vĩnh Thạnh đã có duyên nợ với chốn lao tù: ông đã để lại một phần thân thể của ông nơi
Côn đảo. Chốn lao lung ông đã bị… cung hình. Tiếc một điều là đến nay chưa ai
có đủ điều kiện để xác minh rõ nguyên nhân vì sao ông đã bị cai ngục Côn đảo
hành hạ, xâm phạm đến thân thể. Thân thể của người tù có bản tính của một thổ
hào, dám làm dám chịu.
Trung Kỳ
Dân Biến Thủy Mạt Ký của Phan Châu Trinh có kể lại rằng các vị văn thân
Quảng Nam thì bị án lưu biệt xứ, ngộ xá bất nguyên (lưu đày đi khỏi xứ, gặp dịp
ân xá cũng không được tha), còn 7, 8 người Bình Định bị án đày Côn Đảo khổ sai
chỉ 7, 8 năm. Nhưng theo nhớ lại của người nhà cụ Chánh Tổng Kham thì ông ở Côn Lôn khoảng hơn 10 năm mới được về.
Theo Thi Tù Tùng Thoại thì nhờ có sự
vận động của Phan Châu Trinh và Hội Nhân Quyền của Pháp đã can thiệp, nên cụ Huỳnh
Thúc Kháng cùng một số bạn tù được rời Côn Đảo vào năm 1921. Như vậy tính từ
năm 1909 là năm bị kết án, cụ Chánh tổng Vĩnh Thạnh Nguyễn Hàm có thể được về một
lúc cùng với cụ Huỳnh. Nếu được về trước thì trước cũng chẳng bao nhiêu năm.
Nhưng ông về đất liền với thân thể không còn nguyên vẹn.
Dân biến ở Trung Kỳ xảy ra đến nay
chỉ mới một trăm lẻ mấy năm.
Trăm năm qua, chưa thấy ghi nhận lại
là Dân biến ở Bình Định có nối kết với phong trào Duy tân của các vị khoa bảng
đất Quảng hay không. Bình Định chưa rõ ràng có dấu tích hội nông, hội thương, hội
học…, chưa thể hiện rõ hình ảnh Khai Dân
Trí giống như Lý trưởng Lê Cơ đã thực hiện hồi đầu thế kỷ trước ở làng Phú
Lâm (nay là xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước, Quảng Nam). Nhưng Bình Định là nơi
mà Dân khí cũng hừng hực chẳng kém gì
đất Quảng, nơi khai sinh phong trào. Tiếc là chuyện những người nông dân của tổng
Vĩnh Thạnh đi “làm giặc” thời ấy, người dân ở đây chẳng mấy ai hiện nay biết để
nhắc đến.
Trăm năm qua, một cái tổng Vĩnh Thạnh
nhỏ nhoi sau bao lần nhập tách địa giới, nay được mấy người hình dung ra diện mạo
của nó!? Họa chăng chỉ biết được Vĩnh Thạnh là tên một huyện của Tỉnh Bình Định
ngày nay. Tổng Vĩnh Thạnh hồi ấy có những địa danh mang âm hưởng ngôn ngữ của
người Banar, người Chăm mà cư dân còn sử dụng cho đến tận bây giờ như Hà Nhung
(Hữu Giang), Hà Riêu (Tiên Thuận), cầu Ba La, cầu Cà Ná (ở Thượng Giang). Như vậy
nơi đây là vùng đất mà xưa kia người Việt sống lẫn lộn với những chiến binh quả
cảm của tộc người thiểu số, vùng đất nầy đến nay còn nổi tiếng món Rượu Vĩnh Thạnh đằm hương vị, uống bốc tận
mây xanh, chẳng chịu nhường tiếng Rượu
Bàu Đá… Đó là những xúc tác đã sản sinh nên những con người khí khái như Chánh Tổng Kham ở đây.
Trăm năm qua, ở Bình Định hiện có
mấy ai biết được có một ông Chánh tổng từng bị đày khổ sai Côn Đảo chỉ vì dắt
dân đi đòi hỏi quyền sống của mình!? Chánh
Tổng Kham của tổng Vĩnh Thạnh xưa đã từng can dự vào một sự kiện lịch sử của
đất nước, từng bị lao tù, bị hành hạ thể xác, và rồi thầm lặng nằm xuống ở làng
quê. Hiện nền nhà cũ của ông qua dâu bể trăm năm, nay đã thành thửa ruộng. Còn
người nhà của cụ Chánh tổng Vĩnh Thạnh ngày xưa, nay chỉ vắn tắt có mấy lời:
Ông xưa là người “làm quốc sự”.
Phan Trường Nghị
THAM KHẢO
:
1. Kỷ Yếu Tịnh
Nương Đường - Quách Tộc - Bản in năm 2000, lưu hành nội bộ họ Quách ở Tây Sơn
2. Họ Nguyễn
Thôn Vân Sơn - Quách Tấn - Bản in 1988, Sở VHTT Nghĩa Bình
3. Đại Nam Nhất
Thống Chí - QSQ Triều Nguyễn - Viện Sử Học, nxb Thuận Hóa 1992
4. Địa Chí
Bình Định - website Sở Khoa Học & Công Nghệ Bình Định
5. Trung Kỳ
Dân Biến Thỉ Mạt Ký - Phan Châu Trinh - Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất
bản, Sài Gòn 1973, bản pdf
6. Thi Tù Tùng
Thoại, Huỳnh Thúc Kháng, nxb Nam Cường 1939 - bản pdf
7. Theo lời kể các vị cao niên ở Thượng Giang,
Tây Giang, Tây Sơn, Bình Định:
-
Nguyễn Tri (1900 - 1993)
-
Nguyễn Dự (1906 - 1985)
-
Nguyễn Lương Thiệu (1922 - 2013) Thừa tự Từ đường cụ Tú Năm Nguyễn Chơn
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét