Một
dòng sông quê, tiếng ve râm ran buổi trưa hè, một đêm trăng rải vườn chè… Trong
bao vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng đó, ta còn có vẻ đẹp của những chiều.
Mỗi
mùa trong năm cho chiều một vẻ đẹp riêng. Chiều Xuân thì êm đềm, tràn sắc hương;
Hạ bầu trời cao, nồm thổi ngọt; Thu nước trời ảo diệu (Thu thủy cộng tràng
thiên nhất sắc – Thơ cổ); Đông ảm đạm, giá rét…Thi nhân đã viết về chiều
Xuân:“Chiều xuân sang chuyến đò đông / Trai tơ khăn lục, gái hồng thắm môi / Da
sông mát rải da trời / Đây mùa xuân bén trên màu cỏ hoa / Hiu hiu… chiều ngả tà
tà …/ Buồn lên xóm vắng, cây nhòa khói xanh” (Chiều xuân Trung Kỳ - Hồ DZếnh).
Buổi chiều về thường đượm một vẻ buồn, người ta chẳng gọi “chiều buồn” đó sao?
Có người một bữa chợt kêu lên: “Hôm nay trời nhẹ lên cao / Tôi buồn không hiểi
vì sao tôi buồn…”(Chiều – Xuân Diệu). Chiều làm cho người có cảnh ngộ éo le
thêm nỗi tê tái lòng:“Chiều chiều mây kéo về kinh / Ếch kêu giếng loạn thảm
tình đôi ta” (Ca dao).
Vì
buồn, cho nên chiều gợi màu nhung nhớ, màu chiều cũng là màu nhung nhớ. Tuy âu
duyên mới, bao cô gái lấy chồng xa vẫn nhớ mẹ mỗi chiều: “Chiều chiều ra đứng
ngõ sau / Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Ca dao). Dù yêu phong cảnh đổi
thay, những miền quê xa đất lạ đến đâu, khách lữ thứ cũng chạnh nhớ nhà: “Tôi
là người lữ khách / Màu chiều khó làm khuây / Ngỡ lòng mình là Rừng / Ngỡ hồn
mình là Mây / Nhớ nhà châm điếu thuốc / Khói huyền bay lên cây” (Chiều - Hồ DZếnh).
Đến như bộ đội bận với hành quân, với chiến dịch, anh cũng tranh thủ ngóng về
quê hương: “Cách biệt bao lần quê Bất Bạt / Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì”
(Quang Dũng). Người chiến sĩ cách mạng gặp cảnh đẹp cũng để hồn mông lung với
chiều:“Nhớ gì như nhớ người yêu / Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” (Việt
Bắc - Tố Hữu).
Chiều
là lúc trở về. Anh là người đi xa lâu ngày, nay vừa bước chân tới đầu làng đã gặp
lại cảnh chiều xưa, khiến lòng anh bồi hồi cảm xúc: “Trời chiều bảng lảng bóng
hoàng hôn / Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống đồn / Gác mái ngư ông về viễn phố / Gõ
sừng mục tử lại cô thôn…” (Bà Huyện Thanh Quan). Người xa xứ trở về làng, người
đi làm lụng kiếm sống trở về nhà mà người phong lưu đi “du xuân” cũng trở về
nhà:“Tà tà bóng ngả về tây / Chị em thơ thẩn dang tay ra về” (Kiều - Nguyễn
Du). Mấy người lỡ độ đường, dễ thường có anh học trò lều chõng ra kinh dự thi,
vội vàng hỏi thăm quán trọ để tìm chỗ ngủ đêm. Và rồi nơi chân mây kìa, cánh
chim hải hồ bay về tổ hình như cũng đã mỏi. Người xa xứ, người làm lụng trở về
để rồi sẽ được mẹ lam làm, vợ tần tảo thổi bùng bếp lửa chiều hôm (có người gọi
đó là bếp lửa ân tình), lo cho bữa cơm chiều sớm dọn lên. Đó là bữa cơm gia
đình đoàn tụ, bữa “cơm dưa muối khó khăn mới có” của nhà nông, của người quê.
Nhưng còn những người lỡ độ đường qua đêm trong quán trọ kia thì sao? Có kẻ may
được “giấc kê vàng”, không ít kẻ “túi rỗng không mà lòng cũng rỗng không” đành
chịu cơn đói run người, mong cho mau trời sáng, vì đường còn xa. Nhưng chiều rồi
mà người phương xa cứ lỗi hẹn chưa về, thì đó cũng là lúc người trong song cửa
đợi trông: “Mười ba năm trắc trở / Không hẹn về thăm nhau / Song chiều thơ thẩn
đợi / Đêm xuống lạnh tàu cau” (Quách Tấn).
Nhưng
ô kìa, chiều cũng là lúc ra đi. Từ xóm chài đang nhộn nhịp cảnh chiều, bao
chàng trai tráng dong buồm ra biển khơi để kịp một đêm đuổi theo luồng nục, luồng
thu mà có được mẻ cá lớn. Trên sông quê vừa lúc con nước lên, mấy thuyền ngư phủ
tiếp tục gõ lưới, chờ màn đêm xuống mà thắp lên ánh lửa chài, cái ánh lửa chài
đã làm nên thơ xưa trác tuyệt: “Giang phong ngư hỏa đối sầu miên” (Phong Kiều dạ
bạc – Trương Kế. Mai Lăng dịch: Đèn chài cây bến đêm khơi giấc sầu). Buổi tịch
liêu trùm lên xóm vắng, có cô thôn nữ ra ngõ đứng nhìn trời, nhìn những ánh sao
vừa mới mọc, rồi bất giác khe khẽ ngâm câu ca diễm tình xưa: “Sao Hôm chờ đợi
sao Mai / Trách lòng sao Vượt nhớ ai băng ngàn / Trách lòng đò đã sang ngang /
Xin người giữ kỹ sợi tơ vàng hôm trao” (Ca dao). Một chiều kia, vì muốn xa thị
thành chật chội và bởi quen thói giang hồ vùng vẫy, có mấy chàng lãng tử say
men rượu và say vị đời đang sẵn sàng cho một cuộc khởi hành làm chuỗi ngày viễn
du: “Men đã ngấm bọn ta chờ nắng tắt / Treo buồm cao cùng cao tiếng hò khoan /
Gió đã nổi, nhịp giăng chiều hiu hắt / Thuyền ơi thuyền! theo gió hãy cho ngoan
(Thơ say – Vũ Hoàng Chương). Chủ nhà không còn cầm chân được khách “viễn phương
lai” mà chỉ còn có cách lưu luyến tiễn biệt: “Đương lúc hoàng hôn xuống / Là giờ
viễn khách đi / Nước đượm màu ly biệt / Trời vương hương biệt ly” (Viễn khách –
Xuân Diệu). Thực là một cuộc chia tay đến mây nước ngậm ngùi.
Ai
yêu chiều, thường ít khi bỏ qua những dịp ngắm chiều về. Ai ngắm chiều về, sẽ được
thấy chiều tô điểm vẻ đẹp khắp muôn nơi. Nầy, một bức tranh thủy mặc hiếm có
bày ra trên mặt đất: “Đi rồi khuất ngựa sau non / Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn
tịch liêu / Trơ vơ buồn lọt quán chiều / Mái nghiêng nghiêng gởi buồn theo hút
người(Lửa thiêng – Huy Cận); kìa một hội đất trời khác đang du hồn ta: “Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc / Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa / Lòng quê dợn dợn vời
con nước / Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” (Lửa thiêng – Huy Cận).
Trên
kia, nói chiều đẹp, chiều buồn, chiều nhung nhớ, “Chiều tương tư”
(tên một bài thơ của Xuân Diệu)… Mà cũng chính cái hồn chiều đó là chiều quê
yên ả, thanh bình... Ta có gặp chiều nữa với “gió hiu hiu đẩy mây vàng êm trôi
/ Đồng quê vờn lượn chân trời / Đường quê quanh quất bao người về thôn” (Bàng
Bá Lân) với màu khói lam tỏa lên từ mái tranh, ngọn khói đốt đồng trong gió,
màu ráng chiều phía trời tây cuốn hồn ta …cũng là để xác tín thêm điều đó thôi.
Dù
không muốn, ta không thể không nhắc tới cái trời chiều đen kịt của ngày thiên
tai bão lũ, của thời khói lửa chiến tranh khó mờ phai trong ký ức. Thiên tai
bão lũ sẽ còn quay trở lại, gây thảm họa cho con người, nhưng nguyện vọng hòa
bình sẽ làm tiêu tan những đám mây đen tích đầy âm khí chiến tranh.
Đời
chiều, đời chạng vạng có hẳn là đời buồn, đời vô ích? Chiều sẩm rồi, có chàng
trai trẻ bách bộ trên đường phố, hồn trí đang bâng khuâng với cảnh trời chiều,
bỗng nghe một làn hương sực nức từ đâu đưa lại: mùi dạ hương sớm tỏa. Thử hỏi,
mấy ai chưa một lần tìm đến gốc cây cổ
thụ mà nương nhờ bóng mát?
Huỳnh Kim Bửu
Cố GS Trung Học
Quang Trung Bình Khê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét