Suối Rọ
Rưa nằm dưới chân dãy Thiên Sơn. Rọ Rưa là tên một loại sử ca có từ
thời chúa Nghĩa, Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691). Cứ vào canh ba những
đêm đầu tháng, dân trong vùng lại thức dậy đốt hương trầm để nghe
suối hát. ban đầu chỉ có tiếng nước reo thường lệ. Nhưng lập tức sau
đó trời dất nổi sấm giông, mưa to gió lớn. Dứt gió mưa thì nghe suối
gầm gào, rồi chuyển thành tiếng hát. Buồn thì muốn đến châu thân lập
tức hoá thành cát bụi. Mà vui thì đến phải thét to lên. Chừng năm
bảy khắc thì tiếng hát im. Cũng chẳng còn nghe tiếng suối reo như
thường lệ. Sáng hôm sau, suối lại tiếp tục chuyển nước trên nguồn về
đất đồng Lâm Thượng. Gần hai trăm năm qua chuyện suối hát vẫn tiếp
tục truyền tụng ở nơi đây. Nước bao phen đổi chủ. Nhưng người đời vẫn
giữ nguyên niềm trân trọng đến dị thường đối với hai con người cũng
xương thịt bình thường, nhưng hành tung lại khác thường đến mức trở
thành truyền thuyết.
Chuyện
suối hát xảy ra sau khi Phú Xuân thất thủ, vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn
cùng quan quân bôn tẩu ra Bắc. Nhưng về gốc gác, phải tính từ thời Nguyễn
Hoàng đem dân đất Bắc, vượt Hoành Sơn, vào Nam gầy nghiệp lớn. Trong số
lưu dân này có hai họ Vũ, Trần. Hơn hai trăm năm, hai dòng họ ấy đều
có người ra làm quan với Chúa Nguyễn. Cháu mấy chục đời của họ là
Vũ Đề và Trần Phác đã định nghiệp ở Lâm Thượng.
Thời Định
vương Nguyễn Phúc Thuần, Trần Phác thi đỗ hương cống. Nhưng không đủ
tiền bạc đút lót quan phụ chính Trương Phúc Loan, nên không được bổ
quan. Ông hương cống ngồi nhà dạy học nuôi vợ con. Quyết truyền kinh
sử cho đứa con trai thứ là Trần Chu, để có cơ hội ra giúp nước.
Con gái Vũ
Đề là Vũ Thư cũng học Phác. Thân sinh của Đề nghèo, nên Đề chỉ cày
ruộng, nay cũng muốn đứa con gái duy nhất của mình nên kẻ trí giả.
Chu, Thư đem
lòng thương nhau. Họ Vũ, họ Trần đều biết chuyện, rất bằng lòng.
Chỉ chờ chúng thành nhân, với học hành thành đạt, sẽ cùng đứng ra
tác hợp.
- Tổ phụ hai ta từng chịu ơn đức Thế tổ Nguyễn
Hoàng. Nay hai họ Vũ, Trần lại định nghiệp cùng một nơi, sống chết
phải có nhau là hợp đạo.
Phác
thường vui vẻ nói với Đề.
Thời Định
Vương sưu cao thuế nặng. Có một năm trời hạn, mùa mất. Đề không nộp
thuế nổi, suýt bị gông cùm, nếu không có Phác giúp. Thu thuế xong,
lính phủ không chịu về, nấn ná lại làng, đêm xuống chúng ập vô nhà
Đề, toan cưỡng hiếp Thư. Đề đánh mười đứa trọng thương. Quan phủ bắt
Đề về phủ khảo tra. Ông Hương cống lại phải đem tiền bạc chuộc Đề về.
Lửa tình
giữa Chu, Thư mỗi ngày một đượm. Biết cha mẹ hai bên quí trọng nhau,
Chu, Thư càng buông lỏng mình hơn. Hai người thường lén nhà, vào núi
Thiên Sơn. Tiếng chim tiếng suối là loài âm nhạc của yêu đương.
- Đời con gái lấy chữ trinh làm đầu. Nay đã là
của anh, thời phải trao anh thứ quí nhất của đời em.
Thư nói.
Rồi trao thân cho Chu .
Đã đến lúc
phải nên duyên chồng vợ. Chu định thưa với cha mẹ cưới Thư thì bà
hương cống ngã bệnh chết. Chu phải chịu tang mẹ, đành gác chuyện
tình duyên. Đôi nam nữ lo sợ đến bỏ ăn bỏ ngủ. Nhưng rất may, là sau
lần trao thân cho Chu, Thư chẳng hề chi.
Sau hôm bị
quan phủ đánh đập, Đề hay vắng nhà. Khi năm mười hôm. Lúc vài ba
tháng. Vợ hỏi thì bảo phải đi buôn trầu để kiếm thêm cái ăn. Biết
chuyện ấy, Phác càng lo lắng cho cảnh nhà Đề hơn. Song, có một điều
làm Phác ngay ngáy lo sợ là lời ta oán chúa Nguyễn Phúc Thuần mỗi
ngày một nhiều, mà thanh thế anh em ông Biện Nhạc ở Tây Sơn mỗi ngày
một mạnh. Đêm nào Phác cũng thắp hương nơi bàn thờ tổ tiên, ứa nước
mắt khấn cầu cho cơ nghiệp Chúa Nguyễn chẳng hề chi.
- Không có Đức Thế tổ Nguyễn
Hoàng, nhà ta chẳng được cơ nghiệp hôm nay. Tổ tiên ta từng ăn cơm của
chúa, thì nay ta phải hết lòng thờ chúa. Chớ bao giờ thay lòng
đổi dạ.
Ông hương
cống dạy con. Bấy giờ Chu mười sáu tuổi, tâm trí để hết nơi Thư, đâu
còn để thấu lời cha.
Có một
lần Đề rời Lâm thượng ra đi rất lâu. Cơ hội để Chu cùng Thư vào Thiên
Sơn thề non hẹn biển. Hôm ấy, thừa lúc có người bạn của cha ở phủ
ghé nhà, Chu định sang rủ Thư đi Thiên Sơn. Bỗng nơi nhà khách xôn xao.
Chu quay vào thấy cha nằm sóng soài bất tỉnh. Ông khách nói nhỏ vào
tai người anh của Chu, lúc ấy cũng mới đi đâu về.
- Ông hương cống vì quá lo sợ
thôi. Không sao. Nguyễn Nhạc xưng đế rồi.
Mấy hôm sau
thì Đề trở về Lâm Thượng có lính trấn hộ vệ. Trên cờ hiệu có hàng
chữ của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc ban tặng : " Vũ
Đề, quan hiệp trấn Thiên Sơn". Tới lúc
này, Phác mới hiểu sự vắng nhà bấy lâu của Đề.
Vui sum họp
với vợ con xong. Đề sang thăm Phác. Lúc Chu ra ngõ mừng đón ông nhạc
phụ tương lai, thì Phác lẩn đi, không cho Đề gặp.
Thư thôi
học, theo cha mẹ về trấn đường Thiên Sơn. Sự cách trở chỉ làm đượm
thêm lửa tình đôi lứa.
- Ta đâu ngờ con người ấy lại làm giặc .
Tới lúc
nghe cha nói lời này, Chu mới thấy hoảng hốt. Con cháu chúa Nguyễn
đã bị đánh bạt tận phương Nam. Tuy thôi học, Thư vẫn lấy cớ về quê
thăm thầy, để gặp Chu.
- Tiểu thơ chớ nhọc sức viếng thăm .
Phác không
còn thầy - con như trước, mà gọi Thư là tiểu thơ. Tới lúc này thì
đến lượt Thư hoảng sợ.
Anh cả của
Chu bỗng biệt tích. Chu hỏi, thì cha bảo là đi tìm đường cứu chúa.
Ngồi ghế
quan gần nửa năm, chẳng thấy Phác đến, Đề quyết định trở về quê thăm
bạn. Ông hương cống đã bện sẵn bồ nhìn rơm, nghe Đề đến thì mang đặt
nơi cổng ngõ.
Chu ra đón
:
- Cháu xin mừng quan hiệp trấn.
Thấy bồ nhìn rơm có mũ cánh chuồn, lưng đeo
kiếm, Đề lấy làm lạ hỏi :
- Ông hương cống làm cái này để chi ?
Chu lo sợ đáp :
- Thưa, để đuổi chim.
Nhìn qua
vườn nhà họ Trần thấy cỏ mọc um tùm, chẳng có cây quả chi, Đề càng
lấy làm lạ hơn. Chỉ có Chu tiếp trà quan hiệp trấn. Vì ông hương
cống đã lẩn đi nơi khác.
Tang mẹ
vừa mãn, Chu liền thưa với cha về việc cưới Thư. Phác giận dữ bảo :
- Ta chẳng đời nào để con làm bẩn đục giòng
máu họ Trần.
Thấy con gái u sầu, quan hiệp trấn họ Vũ cũng
đứt ruột đứt gan.
- Ta biết làm sao, khi bên nhà trai chẳng chịu
mở lời.
Bà hiệp trấn
bỗng lâm bạo bệnh, mất. Thư khóc mẹ suốt bảy ngày đêm. Trở dậy, vội
vã về Lâm Thượng gặp Chu để khuây khoả niềm tang tóc.
Phác bảo :
- Tiểu thơ hãy về nói lại với ông hiệp trấn,
là trong một lần dâng hương nơi bàn thờ tổ tiên, ta đã trông thấy vị
tổ phụ họ Vũ. Ông ấy treo cổ chết rồi. Vì không chịu đựng nổi khi
có đứa cháu con phản bội tông đường. Thư đau đớn giấu kỹ lời ấy
trong lòng, dẫu chưa hiểu hết như thế là sao.
Tây Sơn
Nguyễn Huệ đã tiến ra Bắc, vào Thăng Long yết kiến vua Lê. Nghe tin,
Phác xách gươm chém đứt cổ con bồ nhìn rơm ở cổng.
Chu chẳng
chịu lùi bước trước ngăn cản của cha, vẫn lén lút cùng Thư vào Thiên
Sơn bàn tính cách sum hợp. Một lần, Thư nói muốn học cưỡi ngựa, bắn
cung. Chu cười bảo :
- Tân triều đâu đã mở khoa thi kén nữ tài mà
vội.
Thư bỗng đầm đìa nước mắt :
- Anh có nghĩ, một ngày nào hai ta lại thắng
yên cương, trốn đến một nơi xa cách mọi người.
Chẳng còn
chờ đợi nổi, Chu đánh liều thưa với cha :
- Thôi thì cho là quan hiệp trấn phản bội tổ
tiên. Nhưng Thư nào có tội tình gì. Xin cha vì lòng nhân từ, cho hai
đứa con sớm được tác hợp.
Ông hương cống tát Chu liền mấy cái. Rồi bảo :
- Ta mắc lo việc tác hợp thằng giặc ấy với ma
quỷ, biết chưa ?
Quan hiệp
trấn họ Vũ cũng không chịu được cảnh sầu héo của con gái, đánh
liều về Lâm Thượng gặp Phác. Đề tính sẽ dẹp bỏ sỉ diện, mở lời
cưới xin cho nhà trai. Nhưng đến nơi thấy cổng đóng, then cài. Trên đầu
cổng có tấm giấy ghi : "Kể từ nay hương cống Lâm Thượng tiếp
bất cứ ai, vào bất cứ giờ nào, chỉ trừ kẻ làm nhơ bẩn dòng họ tổ
tiên là Vũ Đề".
Lính trấn
phải giữ Đề trên lưng ngựa, mới về đến nơi .
Quang Trung
Nguyễn Huệ đã đánh tan hai mươi vạn giặc Thanh. Từ Thăng Long đến Gia
Định được gom về một mối. Nghe tin, ông hương cống đóng chặt cửa, uống
rượu say, hát :
Nước vốn
hai vua ù, cõi bờ phân định
Gặp nạn
giặc trời ù, người đi bao giờ về ?
Năm ấy Chu,
Thư đã sang tuổi hăm bảy.
Vì có công
lớn trong trận chống giặc Thanh, quan hiệp trấn họ Vũ được vua Quang
Trung tặng bốn chữ "Trung thần tiết nghĩa". Bậc trí
giả bao giờ cũng quí trọng sự tự chủ của đất nước. Đề nghĩ thế,
nên về làng làm hát bội, mừng sắc vua ban, để thuyết phục Phác. Lúc
ấy là cuối xuân. Cả làng xôn xao với tin ông hương cống họ Trần bị
điên loạn. Phác bứt hết quần áo, chỉ cột mỗi nhành lá ở chỗ kín,
xông vào đám người xem hát gào thét, chửi rủa. Người ta chẳng hiểu
ông chửi ai, vì những lời buột ra rất kỳ dị.
Có bao
nhiêu mai mối đến nhà quan hiệp trấn họ Vũ. Cuối cùng,Thư phải thưa
thật với cha :
- Điều quí nhất của đời con gái con đã trao
gửi cho Chu .
Đề không
giận con, mà cảm động đến rơi nước mắt .
Chỉ mỗi
Chu biết rõ cha mình chẳng điên loạn. Con gà trống vẫn tiếp tục nuôi
con bằng dạy học. Ông hương cống càng lầm lì ít nói. Lâu lâu lại có
người đến nhà vào ban đêm, chỉ chốc lát thì đi. Sau đó Chu thấy cha
ngồi hàng giờ liền nơi án thư, đọc mấy cuốn sách chẳng bao giờ Chu
được phép đụng đến. Tình cha con như mỗi ngày một phai lạt, vì ít
khi ông hương cống trò chuyện với Chu. Biết chẳng thể thay đổi được cha,
Chu đành câm lặng. Chỉ tiếp tục tìm cách gặp Thư. Nước mắt của hai
người nhỏ xuống nhiều đến nỗi sau đó không còn để nhỏ.
Họ Vũ
ngồi ghế quan gần hăm ba năm. Chu, Thư sắp sang tuổi bốn mươi. Một đêm,
ông hương cống bỗng gọi con trai, bảo :
- Vua em Cảnh Thịnh đã dìm sông vua anh là tiểu
triều Nguyễn Bảo. Nhà ấy sắp đổ, con biết không ?
Chu im lặng trước vẻ hớn hở khác thường của
cha. Sáng ra, ông hương cống dặn Chu :
- Ta có việc phải đi. Ai hỏi, thì nói là ta về
bên ngoại con.
Rồi đi mãi
cho đến đêm ấy vẫn chưa về. Đêm ấy là đêm mồng bốn tháng năm, năm Tân
dậu (1801). Nghe có tiếng vó ngựa dừng ở cổng, Chu tưởng cha về,
chạy ra đón. Trăng đầu tháng tựa chiếc liềm giắt ngang đỉnh Thiên Sơn.
Thư nhảy xuống khỏi ngựa, sà vào lòng Chu :
- Ta phải có đứa con trong đêm nay. Em chẳng còn
chờ được nữa.
- Vào nhà hẵng trò chuyện. Cha anh đã đi vắng.
Thư mặc áo quần kỵ binh, tóc quấn cao, trông như
con trai. Chu ngây ngất trước vẻ đẹp bất ngờ của người con gái thân
thuộc.
- Đừng hỏi gì thêm. Chỉ hiểu là phải thế này,
em mới đến được đây.
Thư nói,
tự cởi xiêm áo, bước lên giường. Lần thứ hai trong đời, Chu rơi vào
cõi mông lung, kỳ ảo.
Sau khi mặc
lại xiêm áo, Thư đứng lên nói :
- Nhà Tây Sơn đổ rồi. Hồi hôm qua.
Chu như người trong mộng :
- Chuyện triều chính, em chớ nói chơi.
- Đổ thật rồi mà. Cha em cùng một số người
khác trốn đi Ai Lao hồi sáng nay.
- Trốn sang Ai Lao ? Thế em định bỏ mặc
quan hiệp trấn ?
Nước mắt Thư chợt đầm đìa. Đã lâu lắm, Chu
mới thấy Thư khóc.
- Chứ biết làm thế nào. Cả thời thanh xuân em
dành trọn cho anh. Giờ làm sao em đành bỏ anh mà theo cha.
Tới phút ấy, Chu mới thấy lòng xao động
lạ thường. Cả hai cùng im lặng. Bỗng Thư ôm chặt lấy Chu :
- Giờ thì em phải đi. Chẳng bao lâu nữa ta sẽ
gặp lại nhau.
Chu đẩy Thư ra, nghe người lảo đảo :
- Tức cũng sang bên ấy ?
- Không. Anh chớ hỏi gì thêm. Chỉ biết là chẳng
bao lâu thì ta gặp lại.
Nói xong
lời ấy, Thư cắm đầu chạy ra cổng leo lên ngựa, biến mất trong
đêm tối.
Phác đã
trở về Lâm Thượng có lính trấn hộ vệ. Trên cờ hiệu có dòng chữ
của vua Thế tổ Gia Long ban tặng : "Hương
cống Trần Phác, quan trấn thủ Thiên Sơn".
- Rất tiếc là ta đã để sổng thằng giặc ấy.
Ông hương
cống nói với con trai. Chu im lặng, lòng nghe đau nhói.
Vua Thế tổ
Gia Long đã cho quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và mả vua Thái tổ
Nguyễn Huệ. Chu vẫn lấy cớ ở lại nhà hương khói cho mẹ, không chịu
đến trấn đường ở với cha.
Một hôm có
ông già thượng, xưng là người làng Chòm trên núi Thiên Sơn, đến gặp
Chu.
- Cách đây nửa năm có người con gái đi ngựa đến
làng, đưa vàng bạc cho già này, dặn đúng vào ngày tháng này thì
mang thư đến cho con trai quan trấn thủ Thiên Sơn.
Ông già
nói, trao thư cho Chu.
" Đến
chỗ Thác Đổ trên suối Cái thì gặp em ". Thư chỉ có bấy nhiêu.
Chu vô cùng hồi hộp, vì đó đúng là nét chữ của của Thư.
- Bác có biết Thác Đổ trên suối Cái không ?
- Biết. Ở trên núi thì chỗ nào là không biết.
Bấy giờ là cuối tháng bảy, giữa thu. Hoa lâm
bồn nở ngát ở hai bên bờ suối. Lòng Chu nặng trĩu niềm vui. Có
tiếng nước đổ.
- Tới chỗ rồi .
Ông già nói. Chẳng thấy bóng dáng một ai .
- Thư ơi !
Chu không còn giữ được, rán sức gọi thật to.
Chỉ có tiếng dội của núi rừng đáp lại.
Bỗng ông già la :
- Úi, có ai chết .
Cạnh bờ
dốc đá, có hai cái xác đã thối rữa, chỉ còn trơ xương. Chu xem kỹ
là một xác người và một xác vật. Cố xua đi ý nghĩ hãi hùng, Chu
lật thử bộ xương người lên. Chiếc thoa có khắc chữ Chu - Thư còn cài
lên mớ tóc dài đen mượt.
Lúc tỉnh
lại, Chu thấy mình nằm ở giữa ngôi nhà sàn. Ông già thượng đang ngồi
bên cạnh.
- Chớ buồn đau. Hãy đem về mà lo chôn cất nó.
Ông già
nói, trao Chu cái bọc vải. Có cả thảy là mười lạng vàng với mấy
ngàn quan tiền.
Chu ngồi
bật dậy :
- Ta chẳng trở lại chốn ấy đâu .
Quan trấn thủ họ Trần đã tìm ra chỗ ở của con
trai :
- Hãy về lại trấn đường để sống với ta. Chớ
làm ô danh dòng họ Trần.
Chu đáp :
- Con cam chịu bất hiếu với riêng cha, chứ không
thể bất nghĩa với người đời.
Ông hương cống dỗ dành :
- Về đi thôi. Đường công danh đang chờ con.
Tới phút ấy Chu mới cặn kẽ lòng cha. Đâu phải
ông hương cống họ Trần quí trọng cơ nghiệp của Chúa Nguyễn, mà chỉ
sợ cơ nghiệp ấy đổ thì đường công danh của dòng họ ông cũng nghẽn
tắt.
- Thôi, cha hãy về đi. Cứ xem như dòng họ nhà ta
dã không có con.
Ông hương cống tím mặt, thét :
- Đồ bất hiếu. Ta cũng coi như đã không sinh ra
ngươi.
Rồi nhảy
lên ngựa, quay về.
Chu dùng
số tiền bạc của Thư sắm gia súc, mở thêm nương rẫy cho làng. Chẳng
mấy chốc dân làng trở nên giàu có. Bị ép buộc quá, Chu phải nhận
chức tù trưởng làng. Cứ vào canh ba những đêm đầu tháng, tù trưởng
làng Chòm lại ra bờ suối Cái. Chu đã tự làm khúc Rọ Rưa cho mình
hát :
Con nai mẹ
nào chẳng thương con ù, triều đình nào chẳng gian dối .
Con trăn to
hiền như đất ù, vua cũng một loài như quan.
Cây tầm
năng nghìn tuổi ù, cũng đổ.
Chỉ tình
em ù, mãi còn .
Bây giờ Chu
đã quá tuổi bốn mươi, nhưng giọng hát ngọt ngào như đứa con trai mười
tám. Người làng đã gọi Chu là ông Rọ Rưa. Con suối Cái cũng có tên
Rọ Rưa từ đó. Suốt hai mươi năm ở núi, đêm đầu tháng nào Chu cũng ra
bờ suối hát. Theo lời truyền tụng, có một đêm đầu tháng trời nổi
giông sấm, mưa to gió lớn. Suối Cái gầm thét, nhưng lập tức sau
đó lại im. Khúc Rọ Rưa quen thuộc lại cất lên vang toả khắp núi rừng.
Không thấy tù trưởng trở về làng, mọi người đổ ra bờ suối,
thì thấy Chu nằm áp người lên mộ Thư, chẳng còn nói, thở như thường
ngày.
Mùa
thu 1980 - Mùa
hạ 1990
Nguyễn
Thanh Hiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét