Tác giả Tà Áo Lụa Giữa Những Cánh Sen - Elena Pucillo Truong |
Sống yên bình giữa hoa đồng cỏ nội, tuổi trẻ lại háo hức
với không khí nhộn nhịp của chốn phồn hoa. Sống ngập ngụa giữa bụi đường, ồn ào
của phố thị, một số người có tuổi lại hoài vọng về mùi rơm, giọt nắng sớm ở đồng
quê. Trong chừng mực nào đó, hai mặt của cuộc đời hiện hữu qua chiêm nghiệm, từng
trải, va chạm với cuộc sống của con người ... Nhưng sống giữa cuống cuồng của công
việc thường ngày trong thời đại công nghiệp, không nhiều người cho lắm đã tìm được
cho mình một khoảng trời riêng.
Thế mà Tiến sĩ ngữ văn người Ý, chị Elena Pucillo
Truong, khi về làm dâu ở đất Việt đã nhìn thấy, tìm thấy được khoảng trời riêng
ấy của một vài người đang sống giữa lòng phố thị SaiGon. Chị phát hiện được khoảng
trời ấy, vì chị cùng với người bạn đường - anh Trương Văn Dân - đã có cùng chung một
cảm thụ trước hương sen “ấm tình người”, trước những tà áo lụa “quyến rũ” của Việt
Nam.
Quang Trung BinhKhe trân trọng giới thiệu bài viết của chị đã đăng trên tập
san Quán Văn số 009 :
TÀ ÁO LỤA GIỮA NHỮNG CÁNH SEN
Nguyên tác : Un Lembo Di Seta
Tra I Fori Di Loto
Của Elena Pucillo Truong
(Bản dịch của Trương Văn Dân)
Không khí ngạt thở bởi giao thông trong các thành phố lớn. Đó là cảm giác đầu tiên khi ghé thăm một đô thị lớn dù là Á hay Âu, ngạt thở vì hơi nóng, bụi bặm, khí thải từ các phương tiện giao thông, khó chịu vì tiếng ồn ào của xe cộ và tiếng còi xe. Tôi nhận ra là sống trong điều kiện ấy, dần dà người ta phát triển được khả năng thích ứng, giống như một sự cam phận.
Người ta làm quen và chịu đựng tất cả
mọi thứ, dù lúc ban đầu không thể nào chấp nhận, thế mà về sau lại xem những vấn
nạn đó như là điều hiển nhiên trong thế giới này. Nghĩa là tôi cũng quen dần với
những tiếng ồn ào của xe cộ, với những phố xá đông người. Khi trở về Ý, ở một
thị trấn nhỏ yên tĩnh hơn, thật là vô
lý, tôi lại thấy thiếu vắng đám đông người, thiếu vắng những tiếng động và mùi
vị của Sài Gòn. Rồi khi trở lại Việt nam, những thứ mà tôi cảm thấy “nhớ” kia lại
xuất hiện và hằng ngày vây bủa lấy tôi.
Ở Ý, bạn bè rất nhiều người tò mò hỏi
tôi là Việt Nam như thế nào, một đất nước xa xôi, khác biệt về khí hậu, ngôn ngữ
và tập quán. Thường thì tôi nói về đời sống vô cùng khác biệt trong các thành
phố lớn như Hà nội hay Sài Gòn so với các thôn xóm nằm giữa ruộng đồng bát
ngát, khuất sau những luỹ tre xanh và các hàng dừa cao. Tôi luôn nói thêm là
tôi rất nhớ màu xanh của lúa, các màu sắc của đồng quê, đây đó nổi lên một ngôi
mộ cổ hay hiện lên một mái chùa, những ngôi nhà tranh có đàn gà cục tác hay các
ao hồ có đàn vịt bình yên bơi lội. Nhưng cũng có lúc tôi nói với các bạn về sự
giao thông hỗn loạn, rất giống nhau giữa các thành phố lớn, như Napoli ở Ý
thì chẳng khác Hà Nội là bao!
Ở Ý, hầu như suốt cuộc đời tôi luôn
luôn là một cuộc chạy đua với thời gian. Đời sống hối hả, lúc nào
cũng cuống cuồng : đi học, đi dạy, đi làm, tiếp xúc với mọi người trong cái nạn
kẹt xe khốn khổ, nhiều khi ngồi bất lực một mình trong xe hơi, xung quanh được
bao vây bởi những chiếc xe bất động khác. Chiếc đồng hồ trên tay tôi luôn được
chỉnh nhanh hơn 15 phút để tránh việc đến nơi hẹn trễ. Luôn luôn “xung kích” ,
không bao giờ ngừng nghỉ.
Về
sống ở Việt nam có làm chậm tốc độ sống phần nào, nhất là thời gian đầu, nhưng
sau này nhịp sống hối hả cũng bắt đầu xâm nhập ở nơi đây rồi!
Một
buổi chiều, sau khi xong giờ dạy ở trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn,
vừa bước vào nhà thì chồng tôi nhắc:
- Tối nay mình còn phải đi gặp các bạn nữa đó!
Chỉ
có một ít thời gian để thay quần áo và chúng tôi đã ngồi lên xe máy. Sự giao
thông thường lệ vào buổi chiều … rồi đây, chúng tôi sắp đến, rẽ qua một con hẻm
nhỏ sau lưng Đài Truyền Hình thành phố và dừng lại trước một bảng hiệu có ánh
đèn.
Tôi
chẳng biết điều gì đang xảy ra : có một điều gì đó khác thường! Chỉ mới vừa
lách qua một con hẻm mà tôi đã thấy như mình đã ở rất xa phố thị.
Ngồi
trên căn gác có thành chắn làm bằng gỗ tre, những người bạn mời chúng tôi đi
lên. Chỉ khi ngồi xuống chiếc băng dài làm bằng gỗ màu nâu sậm tôi mới nhận biết
là mình đang ở đâu: một trà quán; trên các bức tường có treo các bức thư pháp
viết trên các nan tre, nội dung về thiền trà và Phật giáo. Khi nhìn bức tượng
Phật thật lớn đang ngồi kiết già thiền định ở trước mặt lòng tôi bỗng cảm thấy
bình yên.
Người
bạn mời chúng tôi đến đây là nhà văn Nhật Chiêu, hiện đang giảng dạy văn học ở
trường Đại Học KHXH và Nhân Văn, người rất nổi tiếng về những tác phẩm văn
chương và các công trình nghiên cứu về văn học Nhật và Anh. Đó là một nhà văn
uy tín có tài năng nhưng rất khiêm tốn. Có lẽ nhờ bản tính hiền hậu nên ông được
bạn bè ái mộ và có nhiều sinh viên quý mến.
Từ
nhiều năm Nhật Chiêu là người bạn rất chân tình của chúng tôi và tôi tin không
phải là một sự tình cờ mà hôm nay chúng tôi gặp gỡ ở đây. Bằng sự minh triết và
ôn hoà, dường như ông muốn giới thiệu với tôi những điều tôi chưa biết.
Chính
Nhật Chiêu đã giới thiệu tôi với bà Viên Trân bà chủ thiền trà, mà mới đầu tôi
tưởng là một nữ đạo sĩ. Đó là một thiếu phụ có khuôn mặt dịu hiền, trong sáng
và bình an. Bà mặc một chiếc áo dài bằng lụa mỏng có hai tà áo bay lất phất và
thướt tha. Rất nhiều năm đã sống ở Việt Nam nhưng tôi không lúc nào không hâm mộ
chiếc áo dài truyền thống của đất nước
này. Nhiều năm trước, lúc mới quen chồng tôi, khi đó là một chàng sinh viên mới
sang Ý du học, anh đã kể cho tôi nghe rất nhiều điều: Nhiều lần lấy xe máy chạy
ra cổng trường nữ trung học lúc tan trường để chờ các nữ sinh: Một biển người
thướt tha trong chiếc áo dài tinh khôi, hai tà áo trắng cùng với mái tóc huyền
tung bay theo gió. Một hình ảnh đến giờ vẫn còn làm tôi xúc động là khi nhìn thấy
các cô gái mặc áo dài trắng, thong thả dắt chiếc xe đạp trước cổng trường.
Chồng
tôi rất thích nhìn phụ nữ mặc áo dài. Anh nói thoạt nhìn trông nó cũng tương tự
như các loại trang phục của các đất nước Á châu khác, thế nhưng khi trời có gió
hay người mặc nó chuyển động, hai tà áo ve vẩy phất phơ làm bước đi của người
đàn bà thanh thoát và uyển chuyển.
Tôi
cũng có chiếc áo dài đầu tiên của mình khi về Việt Nam lần đầu để tổ chức đám
cưới vào năm 1985. Mấy năm sau, đi dự đám cưới của hai người bạn Ý ở Milano,
tôi cũng thấy cô dâu mặc áo dài mà cô đã rất thích và đặt may trong một chuyến
du lịch ở Việt Nam. Đó là kiểu áo, mà như tôi đã nói, người phụ nữ nào có cơ hội mặc nó sẽ cảm thấy mình là một
bà hoàng. Dù nó chỉ có một màu hay có được thêu những hoa văn tuyệt đẹp hay không, nó vẫn luôn lịch sự và
quyến rũ.
Và
chiếc áo dài mà bà Viên Trân đang mặc cũng thế: được may bằng lụa có pha những
sợi tơ óng ánh, bà còn lịch sự quàng một chiếc khăn trên cổ, nút thắt hờ, làm nổi
bật màu xanh da trời của tơ lụa. Giọng nói của bà nhẹ nhàng, ngọt ngào và thanh
thoát như tiếng đàn tranh của một cô gái mảnh mai đang gẩy cùng với một thầy dạy
đàn tranh, nhà thơ Lê Mộng Thắng. Ông ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đặt trên nền
nhà với nhạc cụ của mình.
Tôi
ngồi quan sát các cử chỉ thành thạo và điệu nghệ của bà Viên Trân lúc pha trà.
Mỗi loại trà được chọn lựa tuỳ theo khoảnh khắc thích hợp chứ không phải tình cờ.
Bà
Viên Trân giải thích là bà đang chọn trà tẩm hương sen, rồi thông cảm với vẻ tò
mò của khách, bà đưa cho tôi một búp sen có những cánh vừa hé mở, bên trong có
một nhúm trà và đỉnh hoa được cột lại bằng một sợi vải. Bằng cách đó, sau một
thời gian trà sẽ được tẩm hương sen và toả ra trong bình trà lúc được pha nước
nóng. Trong lúc quan sát các cử chỉ thành thạo của bà từ lúc châm nước sôi vào
bình trà, bỏ trà vào, châm thêm nước sôi rồi sau một lúc, đổ đi. Sau hai lần
như vậy bà mới châm nước sôi vào bình trà, đậy nắp và đặt giữa những chiếc tách
nhỏ đã chuẩn bị từ trước.
Căn
phòng lúc này thoang thoảng hương sen. Không gian yên tĩnh và thanh thoát còn
thú vị hơn từ những lời trò chuyện nhẹ nhàng, từ tiếng cười đầy tính bạn bè được
đệm bằng tiếng nhạc êm dịu của hai chiếc đàn tranh. Cả thầy và trò cùng dạo nhạc
và có một lúc, nhà thơ Lê Mộng Thắng còn cao hứng buông đàn để ngâm Kiều và mấy
bài cổ thi, giọng ngâm ấm áp của ông được cô học trò điểm nhẹ bằng vài tiếng
đàn tranh.
Trước
khi uống trà, bà Viên Trân rót cho mỗi người một chén rượu nhỏ rất thơm. Bà nói
đó là thứ rượu sen do mà bà tự làm, theo một công thức từ đời Trần, cách nay mấy
thế kỷ. Tôi không quen uống rượu, nhưng vì tò mò và không muốn mất một chút gì
trong giây phút đặc biệt nầy nên cầm lấy chén rượu nhỏ bà đưa. Hơi nóng của rượu
lan khắp toàn thân lúc tôi nhấp những giọt cuối trên môi.
Chỉ
sau khi mọi người uống cạn chén rượu sen bà Viên Trân mới bắt đầu chiết trà ra
các tách nhỏ đang đặt thành vòng tròn trên mặt bàn. Tia nước từ vòi của ấm trà
như đang vẽ một đường cong liên tục trong không gian, lên xuống nhịp nhàng từ
tách đầu đến tách cuối. Bằng một động tác thật thuần thục, cổ tay thon mềm của
bà chuyển động nhẹ đến nỗi như không thể nào nhận biết, bà chiết đầy trên tất cả
các tách trà. Tôi có cảm giác là thời gian đã ngưng lại trong khoảnh khắc đó:
Chẳng quan trọng là mình đang ở đâu, đang làm gì, ở đây không có chỗ cho quá khứ
với những muộn phiền mà cũng chẳng còn chỗ cho tương lai với bao ẩn số.
Không.
Chỉ còn lại khoảnh khắc vô tận này, khi tôi ấp tách trà nóng ngào ngạt hương sen
giữa hai lòng bàn tay. Tôi cảm nhận được tất cả những cảm giác của mình. Một niềm
xúc động sâu xa, có mang theo hậu vị thơm ngon từ chén rượu sen vừa nhấp. Hơi
nóng của trà lan khắp toàn thân, và đó là một điều gì rất lạ, tuy rất “vật lý”,
bên ngoài mà hình như đã mang lại cho tôi một sự bình an ở bên trong. Đó chính
là niềm vui khi nhận một món quà không mong đợi, một thứ hơi ấm của tình người,
có những người bạn quây quần bên nhau.
Biết
bao điều tôi học được trong tối ấy! Tôi nhớ là sau đó bà Viên Trân đã mang ra mấy
chiếc bánh đậu xanh mà chúng tôi nhâm nhi lúc uống trà.
Tôi
còn gặp những người bạn quý và bà Viên Trân vào những lần khác trong quán trà,
chúng tôi đã trao đổi rất nhiều chuyện quanh ấm trà làm khép lại những cánh hoa
sen và tách trà ngào ngạt hương thơm, thế nhưng lần nào tôi cũng đều sống lại
và cảm nhận cái không khí thân tình và thanh thoát đó.
Sự
hài hoà của âm nhạc, của lời nói thân tình, sức nóng và mùi vị đặc biệt của rượu
sen được đưa lên khi tiếp xúc với trà nóng, chiếc bánh đậu xanh, tiếng xào xạc
và màu sắc quyến rũ của những tà áo dài, sự thanh thản của giây phút sống bên cạnh
nhà văn Nhật Chiêu, bà Viên Trân cùng các người bạn khác như nhà thơ Lê Mộng Thắng,
nhà báo Ngân Hoa ... chính là lý do làm tôi rất yêu mến đất nước này. Dù đã nhiều
năm sống ở đây nhưng với tôi, lúc nào tôi cũng cảm thấy là còn nhiều điều cần
phải khám phá. Và kinh ngạc.
Elena Pucillo
Truong
SaiGon 7- 2012
Một cảm giác thật bình yên khi đọc: ”Tà áo lụa giữa những cánh sen” của Elena Pucillo Truong do nhà văn Trương văn Dân dịch. Tôi có cảm giác như nội tâm mình đang hoà hợp vào vị thanh tao, nồng nàn và ấm áp của tách trà sen, bỗng thấy lòng mình lắng lại, mọi tất bật, quay quắt với dòng đời dần dần tan biến. ”Tôi có cảm giác là thời gian đã ngưng lại trong khoảnh khắc đó: Chẳng quan trọng là mình đang ở đâu, đang làm gì, ở đây không có chỗ cho quá khứ với những muộn phiền mà cũng chẳng còn chỗ cho tương lai với bao ẩn số.”. Phải chăng những hương vị đắng, chát, ngọt ngào, nồng nàn, ấm áp của tách trà sen cũng như ý nghĩa của cuộc đời này vậy.
Trả lờiXóaĐặc biệt qua tác phẩm này, nhà văn Elena đã giới thiệu về đất nước Việt Nam với những đặc trưng đậm chất quê hương: hàng dừa cao/màu xanh của lúa/ngôi mộ cổ/ mái chùa/đàn gà cục tác/tà áo dài/hoa sen/trà sen/bánh đậu xanh, … như cả một tình yêu quê hương mình tha thiết, vì ở đó Elena còn có tình yêu Trương văn Dân nữa….