Đi truyền thuốc về, tôi thấy cửa khép hờ. Bước vào nhà, nghe từ phòng ăn có
nhắc đến tên mình nên tôi dừng lại. Tôi nhận ra tiếng bác Thuận. Có lẽ bác mới
đến và hai người quên khép cửa.
- Bác thấy bệnh tình của Gấm ra sao
?
- Bác rất lo. Bác đã xem hồ sơ bệnh lý của Gấm. Bác thấy tế bào ung thư của
Gấm thuộc loại có nhân, rất khó chữa, vì di căn rất nhanh.
- Nhưng bác sĩ điều trị nói là sẽ dùng loại thuốc mới nhất của hoá trị liệu.
Phương pháp này tốt chứ ?
- Dĩ nhiên là tốt. Bác biết nói điều
này cháu sẽ không vui. Nó làm cháu thất vọng và có thành kiến xấu với người thầy
thuốc. Nhưng nghe bác nói đây: Trong nghề y, người ta quan niệm, nếu nói dối mà
có lợi cho một người nào thì nó là một liều thuốc bổ sung. Đừng bao giờ để người
bệnh đầu hàng và luôn giúp họ bám vào một tia hy vọng dù mỏng manh nhất.
- Bác nói sao? Con chưa hiểu hết ý.
- Khi y học không biết làm gì, họ
làm bận rộn người bệnh bằng những phù phép. Lý do là để tranh thủ thời gian và
khoả lấp sự lúng túng; nhưng điều kỳ lạ
là bệnh nhân lại cảm thấy đỡ hơn. Nói trắng ra đó là một thứ tự kỷ ám thị, nhờ
nó mà khi uống một ly nước từ tay một người đạo mạo mặc áo blu trắng, hay từ
lão thầy pháp mặc áo đỏ khăn đen, cầm bó nhang vẽ bùa trong không khí, bệnh
nhân tưởng được cấp một liều thuốc thánh, nên uống vào sẽ có một sự hưng phấn
mà họ tưởng là hiệu quả.
- Theo ý bác thì…
- Bác muốn nói là có những trò tầm phào, những viên thuốc vô ích, công dụng
chưa rõ ràng hay chưa được chứng minh… nhưng mục đích là làm trí óc bệnh nhân bận
rộn, tạo hy vọng và xoá nỗi sợ.
Điều quan trọng là con bệnh thấy “đỡ” hơn. Kết quả “tốt” hơn. Giới y khoa gọi
đó là hiệu ứng placebo.
- Nhưng dạo này con thấy sức khoẻ của
Gấm đã khá hơn. Hy vọng thuốc đã bắt đầu công hiệu.
- Tại cái tâm con muốn nhìn thấy thế.
Bác nhìn thấy các tĩnh mạch trên cánh tay của Gấm bị phá nát vì những mũi kim
truyền thuốc, lòng bác đau lắm. Nhưng yếu tố tâm lý rất cần thiết để giúp người
bệnh kiên nhẫn và kéo dài sự sống.
- Trời ơi! Nghĩa là…
- Con hiểu rồi đấy. Nhưng phải tuyệt đối bình tĩnh
và đừng nói cho Gấm biết. Hãy ở gần và an ủi Gấm.
- Vậy bác nghĩ là…
- Nghĩ gì ư? Con không thấy các móng tay của Gấm bắt đầu xù xì sao ? Con
không thấy giọng nó khàn khàn, nhịp thở
bình thường nhưng có lúc như bị chèn ép sao? Trên cánh tay bắt đầu xuất hiện những vết bầm.
Bác sợ là thuốc chỉ gây tác dụng phụ mà chẳng hiệu quả. Hay hiệu quả không cao.
Nếu vậy thì khối u sẽ di căn lên màng phổi.
Rồi lên não. Nó sẽ làm Gấm chóng mặt, xây xẩm, dễ té ngã. Không phải là bác sĩ
chuyên về ung bướu, nhưng kinh nghiệm cho bác biết là tình trạng của Gấm rất
đáng lo.
- Thế bác nghĩ rằng…
- Bác không nghĩ gì cả. Bác không biết
được ý muốn của định mệnh. Bác sẽ không dám nói gì hết. Mà thôi, đủ rồi. Bác đã
nói quá nhiều. Đã tán gẫu nhiều hơn những
điều cần thiết. Bây giờ, bác phải đi đây.
Hoảng hồn. Tôi đi giật lùi và vội bước ra khỏi nhà.
Khi tôi đóng lại cánh cửa sau lưng thì chút tự chủ cuối cùng cũng biến mất.
Như một con thú bị thương, sự khiếp hãi gầm lên trong tôi như một phản ứng cuối
cùng trước khi ngã vật. Gần một tháng
nay tôi đã phải đến viện ung bướu để truyền thuốc mỗi tuần ba lần. Tôi đã vật
vã và chịu đựng những cơn đau, những trận nôn nửa. Thốc tháo. Người ta nói giúp
tôi khỏi bệnh. Tôi đã chấp nhận sử dụng loại thuốc tân tiến, phát minh mới nhất
của y học. Nhưng tình trạng của tôi đâu
cần đến những thứ đó. Tôi đã chịu những sự hành hạ không cần thiết.
Tuyệt vọng, tôi cầm chai thuốc trong túi xách ném vào vách tường.
Đà ném quá mạnh làm tôi mất thăng bằng.
Mắt tôi hoa lên, chuệnh choạng bước thêm vài bước, dang hai tay vịn vào tường
mới có thể bước xuống những bậc thang. Đi đâu bây giờ? Tôi không biết. Nhà thì
không thể vào còn nếu chạy loanh quanh ngoài đường thì tôi biết mình sẽ gục
ngã. Đến nằm nhà bạn bè ư? Tôi không thể lê cái xác vô hồn này đến ăn vạ nhà
ai… Suy nghĩ… Cuối cùng tôi lấy xe chạy vào một nhà trọ, thuê một phòng để nằm
tạm vài giờ.
Khi mở được cửa, tôi nằm vật xuống giường như một tảng đá. Ý thức của tôi
lúc đó bị rối loạn và ruột gan chỉ thấy một nỗi đau, như vừa bị một miếng đòn
thâm hiểm mà định mệnh đã giáng trúng. Hy vọng cuối cùng của tôi đã bị đạp đổ.
Tôi nằm úp mặt vào gối. Tôi muốn kiềm chế hơi thở để bình tĩnh lại. Nhưng những
kiến thức về thiền chẳng giúp gì được. Trạng thái đóng cửa với ngoại cảnh đã thất
bại. Thay vào đó, tôi cảm thấy có một sức ép lên hai bên thái dương. Nhẹ,
nhưng sau mỗi đợt co thắt, nó làm tôi tê dại. Tôi muốn hét lên. Tôi muốn
thét gào nỗi sợ với ai đó, hay đập phá mọi thứ xung quanh.
Áp lực của cõi sống như càng lúc càng đè nặng lên ngực.
Lúc cơn đau dịu đi, tôi cố gắng thu hết tàn lực để suy nghĩ. Thế nhưng đầu
óc cứ trống không. Có một cái gì đó lờ mờ làm đầu óc tôi càng lúc càng mụ mị. Bốn bức tường của căn phòng như lắc lư dịch
chuyển. Chúng khép dần như bắt vít, thu hẹp khoảng không. Không gian dồn ép,
vây chặt lấy tôi, khủng khiếp như bị nhốt trong một chiếc quan tài bằng kính.
Xung quanh tôi chỉ có sự yên lặng của huyệt mộ. “ Tôi đã làm gì? Tại sao số phận
lại khắc nghiệt với tôi?” Không có trả lời. Tôi chỉ thấy sự cô đơn của chính bản
thân mình trong thế giới này. Tôi cảm giác mình chỉ còn là một mẩu thể xác đang
thoi thóp, cơ thể còn ấm nóng nhưng không còn một chút sinh lực. Cái chết dữ tợn
đang chậm chạp bước đến, các tế bào rồi sẽ lần lượt chết vì trái chôm chôm mỗi
lúc một phình to và cô Gấm sẽ nằm bất động, ý thức, chờ đến lúc trái tim hoàn
toàn ngừng đập.
Tôi nằm vật trên giường, hai hàm răng cắn chặt vào mép áo để khỏi phải hét
lên. Vì cuồng điên và bất lực.
Tâm trí tôi mờ ảo như một đám sương mù. Hai bên thái dương đau nhức, tôi
thiếp đi trong một cơn mơ màng.
Giấc ngủ đã đến. Nhưng có lẽ đó không phải là giấc ngủ mà là một sự mê mệt,
một sự quên lãng hoàn toàn. Từ trước đến nay chưa bao giờ tiềm thức của tôi lại
chìm đắm trong một sự lãng quên đến thế, khó khăn lắm tôi mới có thể kéo dần tiềm
thức trở về với thực tại, từng tí, từng tí một. Khi tỉnh dậy, tri giác của tôi
vẫn không sao xác định được thời gian. Chỉ mơ hồ hiểu là trời sắp về chiều. Và
tiếp theo cảm giác đó là nỗi sợ hãi.
Nó đã bám theo tôi ngay cả trong giấc ngủ.
Sự im lặng trong căn phòng bỗng làm tôi khó chịu. Tôi ngồi bật dậy mở toang
cửa sổ. Những khối tháp bằng ciment áng mất tầm nhìn. Có lúc tôi tưởng như tất cả
những cao ốc đang sừng sững mọc lên trong thành phố này đang ngạo nghễ đè lên
ngực mình. Cùng với nó là khói bụi, tường vách, ban-công, nóc nhà sắt thép đang
đổ ụp. Tôi có cảm giác là thân thể mình mỗi lúc mỗi cứng đờ, và có lúc, trong
cơn sợ hãi điên cuồng, tôi muốn khóc rống lên làm náo động cả cái thế giới này.
Không. Cần phải ra khỏi nơi đây. Phải đi ngay, đi ngay… nhưng trời đất bao
la thế này mà tôi chẳng biết về đâu. Tôi không còn một chỗ nào để được yên
thân. Tuy nhiên tôi hiểu là mình cần phải đi khỏi đây, cần phải thoát khỏi sự
im lặng khủng khiếp này.
Và bất thình lình, tôi ngồi bật dậy lao ra hành lang.
Sau lưng là cánh cửa mở toang hoác. Và trong sự ngạc nhiên của nhân viên
phòng nghỉ tôi thanh toán tiền phòng trong vội vã, lấy xe rồi phóng ra ngoài.
Tôi chạy trên đường đờ đẫn như một kẻ mộng du. Những hình ảnh và khuôn mặt
bềnh bồng quanh mình như những bóng ma. Tôi nhìn mọi người, và có lẽ mọi người
cũng nhìn lại tôi, nhưng tôi như không thấy gì cả.Tôi không ý thức là mình đang
nhìn cái gì. Mình đang chạy đi đâu. Chỉ có tay lái và tay ga không hiểu bằng
cách nào cứ cho xe lao đi, chạy vun vút trên đường phố.
Một mối quan hệ nào đó bình thường điều khiển trí óc của tôi giờ đây như bị
đứt đoạn. Tôi lái xe mà như không chủ đích, cứ
giữ tay lái và chạy, tiến mãi về phía trước như muốn bỏ lại nỗi sợ ở
phía sau lưng. Có lúc tôi đi bình thường, có lúc tôi như đứng lại, chỉ có con
đường nhựa đang chạy dưới chân. Có lúc mọi vật đứng yên mà cũng có lúc những cột
điện chao đảo, lắc qua lắc lại…và tôi tưởng mình sẽ ngã. Những lúc ấy, theo bản
năng tôi cố giữ thăng bằng và chạy chậm ..
Phản xạ đưa tôi chạy về phía cầu Bình Triệu nhưng tôi không về nhà
mà rẽ xe qua Thanh Đa, về hướng Bình Quới.
Đến một góc khuất tôi dựng xe rồi bước dọc theo bờ sông. Tôi đi rất lâu và
khi đã mệt nhoài tôi vẫn bước tiếp mặc cái mệt rã rời trong cơ bắp. Đi, đi mãi
và cuối cùng tôi tìm được một nơi vắng vẻ và cạnh đó một bãi cỏ xanh. Mới đầu
tôi ngồi nhưng chỉ một lát tôi thả người nằm ngửa ra bất động, hai cánh tay và
đôi chân giang ra thành hình chiếc thập tự trên nền cỏ xanh mềm; Tôi nằm yên và
nhắm mắt lại. Sự vĩ đại của cơn mệt nhọc tự nó đã làm giảm bớt căng thẳng. Nó
không cho phép một cảm giác bất kỳ nào khác ngoài sự dễ chịu khi sự căng thẳng
rời dần khỏi các cơ bắp. Tôi hít thở như lời bác Thuận dạy : “ Hít vào sự bình
an. Thở ra, thãi những lo âu, sợ hãi hay
căng thẳng”.
Nằm yên như thế một đỗi lâu tôi thấy người dễ chịu. Tôi chuyển thế nằm sấp,
chống hai khuỷu tay ra phía trước, hai bàn tay chống lấy cằm rồi ngắm nghía những
đường vân trên những chiếc lá nhỏ nằm trước mặt mình. Có lúc tôi ngắt một bông
hoa dại, làm những sợi cỏ đung đưa, run rẩy. Nhìn chán, tôi xoay người nằm ngửa,
cảm nhận hơi ấm của thảm cỏ dưới lưng mình. Trên cành cây, những chiếc lá có thứ
màu xanh mượt mà khác hẳn những chiếc lá ửng vàng bám đầy bụi bặm trong thành
phố. Các lá cây bất động treo trên nền trời vàng chanh bóng loáng. Vẻ xanh xao
của bầu trời càng làm cho ánh sáng chiều yếu dần. Tôi ấn mạnh lưng xuống đất và
chợt cảm thấy một sự khoan khoái nhè nhẹ trong các cơ bắp. Nằm một lát tôi chống
tay đứng dậy, đi dọc bờ sông, nhìn bóng
mây phản chiếu trên mặt nước. Có hai bầu trời. Một trên cao. Một dưới thấp. Đường
chân trời xa tắp, không biết đâu là giới hạn.
Chiều xuống. Tôi nhìn những mảng lục bình đang bập bềnh trôi. Nắng đã tắt gần
hết; Chỉ còn sót lại một mảng nắng trên đọt cây cao. Lòng tôi tự nhiên chùng xuống.
Tôi chưa hiểu tại sao bên một dòng sông… trong cái thời khắc của buổi chiều tàn
lại gây xúc động tâm hồn mình đến thế. Có lẽ giữa phút giao hoà của ngày và
đêm, sự phối hợp của nắng vàng và bóng tối đang choàng lên tạo vật một sắc màu
lung linh huyền bí.
Bầu trời chiếu sáng mờ mờ, xanh và rộng như một đại dương phẳng lặng.
Bên góc trái còn có một mảnh trăng lưỡi liềm, lơ lửng như treo giữa mênh mông
thăm thẳm.
Gió nhè nhẹ thổi. Trời đang trong bỗng mây trắng ở đâu chậm chạp kéo về,
bay từ hướng đông nam qua tây bắc. Những
tầng mây, mới đầu lẻ tẻ, thưa thớt nhưng chỉ trong chốc lát chúng kết hợp thành nhiều khối, rồi đột ngột hiện ra như muôn nghìn đền đài đồ sộ ; mỗi khối có kích
thước lớn hơn ức vạn ngôi đền thông thường mà con người xây dựng xưa nay. Nó có
những đỉnh cao như toà tháp, những mái bằng nhô cao, vạt thấp, những hình trôn ốc
được chạm khắc, đường nét đậm nhạt uyển
chuyển giữa trời… hình ảnh xem giống Angkor-wat, mà còn vĩ đại hơn Angkor-wat
hàng trăm hàng vạn lần.
Nhưng có lẽ tôi không nên gọi nó là Angkor-wat, mà phải gọi là đại vực, là
Grand Canyon vĩ đại và đồ sộ .
Một bức tranh thiên nhiên kỳ tuyệt hiện lên sừng sững giữa trời cao.
Xung quanh khối tháp bên phải có ánh nắng chiếu vào, do một khúc xạ và phản
chiếu kỳ ảo, ánh sáng biến thành những đường viền màu trắng, làm những đền đài
kia càng thêm sáng chói và rực rỡ.
Màu sắc của đại vực lộng lẫy và biến
hoá vô lường.
Tôi nhìn sững cảnh sắc kỳ lạ đó như kẻ bị thôi miên.
Thời khắc như dừng lại, và cảnh đền đài đồ sộ hiện giữa không trung kéo dài đâu chừng vài phút.
Bởi, sau mốc thời gian đó, một điều kỳ lạ đã xảy ra.
Gió!
Bầu trời chuyển động. Gió nổi lên. Mỗi lúc mỗi mạnh. Những khối mây vần vũ,
dịch chuyển, đổi ngôi. Có một khối tháp
lớn bay qua, che khuất, như va chạm vào
ngôi đền làm tường thành ập xuống. Trên thinh không những vân sóng đồng tâm, tầng
tầng lớp lớp loang ra, lan rộng.
Theo làn sóng những đền đài, miếu mạo bị chấn động, run rẩy, tự dát mỏng,
biến dạng rồi chìm đi. Mất hút.
Cảnh tự xoá diễn ra chậm chạp. Trịnh trọng và thần bí như tuân theo một
nghi lễ trang nghiêm.
Bất ngờ hiện ra, đột ngột biến mất.
Tất cả những hình tượng đó chợt làm
tôi thấy rõ sự sụp đổ ; như sự tan vỡ của ảo tưởng. Và ngộ ra sự trần trụi của
phù du.
Mọi phiền muộn, lo toan trong đời đều điên rồ , vô nghĩa.
Rồi cuốn hút trong chấn động của vân sóng, những lo âu, phiền muộn bỗng chốc
tiêu tan ; Tình yêu, khổ đau, bệnh tật,
hạnh phúc, tử sinh chỉ là hư ảo.
Tất cả đều bị xoá mờ.
Trên bầu trời phút chốc chỉ còn một màu mây xám.
Những tảng mây không còn hình thù gì
rõ nét.
Dưới ánh hoàng hôn, lác đác có vài khối mây riêng lẻ. Có khối vàng vọt nhưng cũng có khối sẫm đậm màu da cam.
Phần lớn đã tự dát mỏng và phân tán như muôn nghìn lông ngỗng, vắt vẻo giữa
trời.
Dòng sông trước mặt vẫn đang chảy nhẹ nhàng thoải mái trước mắt tôi. Tiếng
nước chảy rì rào. Tôi đến sát bờ, soi mình trong dòng nước. Tôi nhìn thấy khuôn
mặt và mái tóc xoả dài phản chiếu trên mặt gương. Dường như trong mờ mờ nhân ảnh
còn có cái gì của quá khứ, của hiện tại và của tương lai đang quyện vào nhau.
Kiếp trước, kiếp sau, đời này tiếp nối. Khuôn mặt dừng lại vài giây, như nhìn lại
tôi, rồi, bất chợt một con nước xoáy, bóng ảnh kia tan biến .
Ngay lúc ấy, tôi thấy một cơn đau, nhói lên giữa ngực. Nhưng tôi chỉ khẽ đặt
một bàn tay lên ngực mà không sợ hãi. Tôi biết
rồi sẽ có một cơn đau sung sướng, hiệu quả như một nhát dao chí mạng, vết
thương vỡ mủ, ứa ra… sau đó tất cả sẽ chấm dứt. Và cuối cùng máu sẽ phọt
ra từ hai trái phổi, phù phù rửa hết những
đau thương và bất hạnh.
Đây đó, mây tản mác thành những mảng đen lấp loáng, như vết dầu loang trên
biển.
Chiều đang xuống nhanh. Mặt trời sắp tắt….
Trương Văn Dân
Trích tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới
mưa” (trang 320 - 327)
(Cty văn hoá Phương Nam & NXB Hội nhà Văn - 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét