Câu nói của David đã
ám ảnh tôi một thời gian rất dài, và có thể cho rằng từ lúc ấy quan
niệm sống của tôi đã dần dần thay đổi. Trước kia tôi luôn luôn tất bật
trong việc mưu sinh, toàn bộ thời gian đều dành cho công việc. Tôi đã sống theo
một thói quen, như một phản xạ, chấp nhận một cách thản nhiên nhịp điệu đều đều
của năm tháng và ít khi suy nghĩ vẩn vơ ... nhưng biến
cố xảy ra cho bạn đã làm tôi kinh hoảng nhìn lại
mình và từ đó tôi thường hay thắc mắc và ưu tư về ý nghĩa cuộc đời.
Lúc ấy là một buổi
chiều mùa thu. Trên trời có những cụm mây trắng đang
về một phương vô định. Chúng tôi đứng trên tầng thứ sáu ở cuối hành lang bệnh
viện nhìn xuống những đứa bé trên tay cầm những que kem cuối mùa hay những chiếc
bong bóng nhiều màu bay bay. Không gian im đến nỗi có thể nghe
những tiếng reo vui của chúng. Trong đầu tôi vừa lóe lên ý nghĩ là những hình ảnh
vui tươi ấy sao mà tương phản với thế giới bên trong, giữa người thường và kẻ bệnh,
thì câu nói của David đã làm những hình ảnh trước mắt tôi chao đảo và nhạt
nhoà.
Giờ thì David và tôi
đã mãi mãi không còn gặp nhau. Nhưng mỗi khi cây phong trong vườn tôi bắt đầu đổi
sắc, nhìn những tán lá muôn màu lung linh trong gió thu bắt đầu chớm lạnh, lòng
tôi lại không khỏi nhớ đến người bạn cũ. Những lúc ấy, hình ảnh David cứ hiện đến,
khi lờ mờ, khi rõ, làm đôi khi tôi có cảm giác về sự hiện diện của anh. Tâm trạng
đó chỉ đến với tôi trong vài giây ngắn ngủi, nhưng âm thanh của lời
nói cuối như vẫn còn vang lên rồi vọng lại từ một đáy sâu thăm thẳm trong tâm hồn.
Mười năm trước tôi gặp
David trong hội nghị khoa học chuyên ngành. Lúc ấy vừa tốt nghiệp đại học được
vài năm và đang phụ trách một nhóm nghiên cứu kỷ thuật dược. Có lẽ tôi là người
Á đông duy nhất nên sự hiện diện của tôi đã gây nên một sự chú ý cho các đồng
nghiệp. Trong giờ giải lao chúng tôi tình cờ ngồi gần nhau và sau vài câu xã
giao, hỏi thăm vớ vẩn, David cho tôi biết là đang làm việc cho một hãng siêu quốc
gia có chi nhánh tại Milano. Anh có khuôn mặt rất hiền, dưới vầng
trán rộng và cao là đôi mắt long lanh, đầy nghị lực. Lúc đối diện không hiểu
sao tôi lại tinh nghịch để ý đến lọn tóc vô duyên bên trái thường rơi phủ
mắt, ranh mãnh nhìn anh mân mê rồi hất lên, điệu bộ như cô con gái
hay làm dáng.
Sau một lúc David
nhìn tôi và hỏi :
- Xin
lỗi, tôi không đoán được ông là người ở đâu ! Nhưng tôi chắc không là Nhật, cũng
chẳng phải Đại Hàn hay Trung Quốc.
- Tôi
là người Việt Nam !
Tôi
nghĩ David không đoán ra là phải. Thuở ấy sinh viên Việt Nam qua Ý du học rất
ít. Có thể nói là đếm được trên đầu ngón tay. Chính quyền miền nam chỉ cho qua
có hai đợt rồi ngưng lại , bỡi lệnh động viên sau muà hè đỏ lửa.
Sau
tiếng “ ồ “ kinh ngạc, David hỏi tiếp :
- Việt
Nam, nhưng quê ông ở đâu ?
- Tôi
ở miền Trung.
Tôi chỉ trả lời qua
quít vậy thôi. Nhiều người Ý, có người không biết Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ
thế giới, nhưng khi nghe Việt Nam thì cứ hỏi xấn, làm như hiểu biết
ghê lắm. Vài địa danh nếu có tình cờ nghe từ các phóng sự chiến tranh qua đài
truyền hình chắc họ đã quên rồi. Họ chỉ chờ chúng tôi trả lời là thuộc về miền
Nam hay miền Bắc để bình luận chiến tranh, để phân biệt chúng tôi là loại thân
Nga hay thân Mỹ, đưa sâu câu chuyện về nội dung chính trị mà chúng tôi thường
tránh mất thì giờ khi thấy không cần thiết. Theo kinh nghiệm khi nói miền trung
là họ bị khựng lại và bắt buộc phải thay đổi đề tài.
Nhưng lần này thì
khác hẳn. David cứ hỏi tiếp :
- Miền trung mà ở tỉnh nào ? Gần Huế hay Phan
Thiết ?
-
Bình Định. Tôi bất ngờ thú vị ,nhưng vẫn trả lời nhát gừng, tinh quái nhìn anh
với vẻ thách đố. Ông có biết là đâu không ?
-
Sao lại không ? Vừa nói David vừa lấy bút vẽ nguệch ngoạc trên giấy. Bình Định,
Qui Nhơn nằm giữa Nha Trang và Đà Nẵng … ở về phía đông Pleiku…
Tôi trố mắt ngạc
nhiên. Hoá ra những năm 68-70 David có chân trong phong trào sinh viên tranh đấu
đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam nên đã theo dõi tình hình khá kỹ.
Sau hội nghị chúng
tôi quen rồi thân nhau.
*
* *
Vì cùng ở Milano nên
từ đó tôi và David thường liên lạc. Mới đầu chỉ trao đổi những thông tin nghề
nghiệp, nhưng dần dần chúng tôi trở thành bạn thân. Tuy nhiên chúng
tôi ít có dịp gặp nhau vì lúc đó tôi ở ngoại ô còn David vẫn ở trong
thành phố.
David lớn hơn
tôi năm sáu tuổi và là người luôn luôn sống cho công việc. Trong đầu
anh lúc nào cũng ám ảnh ý nghĩ làm giàu và toàn bộ thời gian của anh
đều dành cho mục đích duy nhất ấy. Sau này khi biết anh nhiều hơn, tôi mới lẽ
ra là tại sao một người thông minh và vui tính như anh lại có rất ít bạn
bè.
Lúc ấy David đã lập
gia đình và có một bé trai. Carla vợ anh là một cô gái trẻ, khá đẹp, nhưng ít
khi tiếp chuyện với những người quen của chồng mình. Lúc đầu tôi cứ tưởng tại
cô ta nhút nhát, hay e thẹn, nhưng David cười và bảo là không phải. Anh cho hay
là cô ta làm việc trong công đoàn và trước đây còn là một thành viên hoạt động
trong phong trào phụ nữ. Tôi thấy lạ quá. Thông thường những người hoạt động xã
hội thường ăn nói hoạt bát, cớ sao… nhưng có lẽ sau khi lấy chồng, bận bịu con
cái, cô ta thay đổi tính.
Nhìn bề ngoài vợ chồng
David không có vấn đề, họ sống bình thường như những gia đình khác.
Khi mang
thai đứa con thứ hai Carla đề nghị chồng mua một
villa gần thành phố, có vườn để các con có chỗ vui đùa và họ dọn về đó
trước khi đứa bé ra đời. Thời gian sau vì hai con còn nhỏ nên Carla quyết định
xin nghỉ việc.
Villa của David nằm
khá gần khu nhà tôi tôi cư ngụ nên từ dạo đó chúng tôi thường có dịp gặp nhau,
phần lớn đều do tôi chủ động và điện thoại trước chứ David rất ít
khi liên lạc. Lúc đầu tôi hơi phiền nhưng về sau biết những bận rộn
của bạn, tôi không còn quan tâm nữa.
Thủa ấy tôi còn khá
trẻ và cũng rất đam mê công việc. Tôi làm việc rất hăng say, đọc nhiều sách kỷ
thuật để trau dồi nghề nghiệp. Đường công danh của tôi thênh thang rộng mở, tôi
hăm hở tiến đến những mục đích của mình. Toàn bộ thời gian tôi dành cho việc tiến
thân, ít khi quan tâm đến những chuyện tâm tình hay chia xẻ những buồn vui với
những người trong gia đình. Những chuyện ấy tôi cho là vặt vãnh, quá tầm thường.
Lúc đó tôi còn quá non nớt để nhận ra tầm quan trọng về giá trị của những điều
tưởng như tầm thường vì luôn nằm trong tầm tay, tôi nào biết đó là những vấn đề
căn bản của hạnh phúc và an lạc trong đời người. Đến lúc đó trong đời tôi chưa
xảy ra biến cố nào để giúp cho tôi hiểu – mà thường khi hiểu ra như thế thì đã
quá trễ rồi, không sao cứu chữa được - Nhưng cũng có thể là do tham vọng và
lòng kiêu hãnh của những người trẻ tuổi, luôn tưởng mình có sức mạnh vạn năng,
có thừa sức để thực hiện những ảo tưởng ngông cuồng. Và
cái bã lợi danh đã lôi cuốn tôi lao vào dòng đời như muôn ngàn
người trẻ khác.
Nhưng sức làm việc
kinh khủng của tôi thật ra chẳng thấm vào đâu so với những năng nổ của David.
Ngoài công việc ở hãng, thứ bảy chủ nhật anh còn bận pha chế mỷ phẩm,
và buổi tối tuần ba, bốn bận, xin trực đêm ở một pharmacie.
Dù có vị trí vững
trong công ty nhưng David vẫn không vừa ý. Anh thường nói là lời khuyên của cha
lúc nào cũng văng vẳng bên tai và thôi thúc anh đi tới. Anh cho rằng một chỗ đứng
trong công ty dù cao đến đâu cũng phải lệ thuộc vào người khác nên anh quyết vượt
qua những ràng buộc ấy để vươn lên. Bỡi thế sau khi tốt nghiệp, anh vừa
làm vừa học để lấy thêm bằng chuyên khoa chế tạo mỹ phẩm. Sống trong
môi trường dược, anh thừa biết là muốn lập một công ty phải cần vốn
rất cao mà cả đời anh cũng không thể nào dành dụm nổi, chỉ có chuyển qua mỹ phẩm
thì sau này anh mới có thể trở thành chủ, vì luật lệ sản xuất không đến nỗi khắc
khe và máy móc dành cho sản xuất tương đối giản đơn.
Có thể nói đây là sự
chọn lựa chính xác và suy nghĩ sâu sắc của anh. Ngay trong villa anh trang bị một
phòng sản xuất nhỏ và với óc sáng tạo, anh hoàn thành những công thức mỹ phẩm bằng
những thiết bị đơn sơ, phần nhiều do tự chế. Trong những đêm trực ở pharmacie
anh so sánh, đối chiếu những thành phẩm của mình với những sản phẩm đã nổi
tiếng, nếu có chi tiết nào không vừa ý, anh về nhà đổi đi thử lại mãi cho đến
khi vừa ý mới thôi.
Sức làm việc bất kể
ngày đêm của David đã làm tôi hoảng hồn vì chưa từng thấy ai làm việc như thế.
Những thời gian sau, tôi biết rõ những sinh hoạt hằng
ngày của bạn : Sáng dậy sớm vì quãng đường từ
nhà đến phòng thí nghiệm thường kẹt xe và chỉ có cách rời nhà khi mọi
người còn ngủ mới có thể tránh được giờ cao điểm. Ở sở, David luôn bận rộn và
trách nhiệm nặng nề, tương xứng với những thăng thưởng thường xuyên. Đến giờ ăn
trưa, David thường đi riêng, luôn luôn mang theo một tạp chí kỷ thuật và ngồi ở
nơi vắng vẻ, Anh ăn vội vã và gần như lén lút đẩy một cái bánh mì nhồi thịt
vào xách tay, cầm thêm vài quả trái cây cho bữa ăn chiều, vì sau khi tan sở anh
phải đi trực ở một nhà thuốc tây suốt buổi tối. Từ sở đến pharmacie
khá xa, nếu phải mua sắm thức ăn, chắc chắn anh sẽ đến trễ...
Những lần tôi gặp anh,
không khi nào câu chuyện của chúng tôi không bị gián đoạn. Nếu hẹn ở phòng pha
chế trong villa vào dịp cuối tuần thì anh vưà pha chế vừa nói chuyện,
đồng hồ điện tử trên tay chốc chốc lại reo lên nhắc nhở một cuộc hẹn hò nào đó
phải đi ngay, hay trả lời những cú điện thoại gọi đến để đặt hàng, thương lượng
giá. Còn gặp nhau buổi tối ở Pharmacie thì ít khi chúng tôi nói cho
tròn những điều cần nói vì khách gọi cữa liên miên, hoặc có khi bị ngắt quảng chỉ
vì bọn xì ke bấm chuông, mua siringe để chích choát.
Cuộc sống của David
luôn luôn bị hối thúc bỡi thời gian và hoàn toàn bị ám ảnh về tiền bạc.
Một thời gian sau, Carla
nói là cô chán ở nhà một mình chỉ để dọn dẹp nhà cửa và lo cho con cái, nên xin
phép anh được đi làm trở lại. David sợ vợ buồn nên chẳng những không ngăn cản
mà lại còn khuyến khích. Mấy đứa con thường được gửi ở nhà ông bà ngoại. Dần dần
Carla bị cuốn hút vào sinh hoạt chính trị, họp hành liên miên nhiều bữa đến
khuya mới dứt. Đôi khi trở về căn nhà quạnh quẽ David cũng thấy buồn,
nhưng nỗi buồn chưa kịp ngấm thì anh đã hăm hở lao vào giòng đời để đuổi bắt thời
gian.
*
* *
Thấy anh làm việc quá
đáng nên có lần tôi gặng hỏi. David thường nói là tao cần tiền, rất
nhiều tiền. Chỉ có tiền thì tao mới được tự do và hạnh phúc. Tôi không bị
những lý lẽ đó thuyết phục, nhưng rất tò mò muốn biết vì sao một con
người nhạy cảm và thông minh như anh lại chọn một lối sống
không mấy thông minh như thế .
Một lần David tâm sự
và kể tôi nghe về gia cảnh của anh. Khi nghe chuyện tôi cứ thắc mắc
mãi và không biết là những lời giáo huấn của cha mẹ khi các con còn
thơ ấu có ảnh hưởng ra sao đến việc hình thành nhân sinh quan của chúng sau
này.
David sinh ra trong một
gia đình khá nghèo. Những buổi tối về nhà với bàn tay còn dính đầy dầu
mỡ, người cha thường lập đi lập lại “Nhớ nghe con, trên đời này chỉ có học thức
và tiền bạc mới mang lại một cuộc đời hạnh phúc”. Bà mẹ đang chờ chồng rửa tay ở
bồn nước trong nhà bếp, ngước đôi mắt lơ láo nhìn ông, Những lời ấy đối với bà
quá cao xa, chẳng khác gì chuyện người ta mong cầu trúng số.
Từ nhỏ David là một đứa
bé rất ngoan và học hành chăm chỉ. Anh luôn luôn tâm niệm là mình cần cố gắng tối
đa để xứng đáng với công lao khó nhọc của cha, những lúc sau luôn về
trễ vì hay nhận việc ngoài giờ. Sau khi lấy xong Tú tài, cha anh khuyên con nên
chọn một phân khoa kỷ thuật ở đại học vì tin rằng đó là sự chọn lựa tâm đắc nhất.
Có lẽ đó không phải
là con đường đúng nhất đối với David. Hình như văn khoa mới hợp hơn với tính
tình nhạy cảm, hay mơ mộng của anh. Nhưng không phải vì thế mà việc học hành của
anh bị trở ngại. Trái lại là khác, bỡi anh luôn là sinh viên xuất sắc từ khi nhập
học cho đến ngày trình luận án ra truờng. Nhưng tiếc rằng người cha thân yêu
không đợi được ngày vinh quang đó của con mình. Một buổi tối mùa đông, các
đồng nghiệp làm việc ngoài giờ thấy ông ngồi tựa đầu trên bàn máy, như đang say
ngủ. Nhưng đó là giấc ngủ không bao giờ tỉnh dậy. Cơn nhồi máu cơ tim đã cướp
ông đi vĩnh viễn. David còn lại một mình với mẹ. Bà lão sau cái chết của
chồng càng đâm ra đờ đẫn. Sau khi tìm được việc, David đề nghị thay đổi căn nhà
cho mẹ, nhưng bà gạt đi, thích được sống trong căn phòng âm u
quen thuộc, vì đã từ lâu không còn ước mơ gì nữa.
*
* *
Một hôm
sau khi ăn mẫu bánh mì và đang chuẩn bị đi trực ở pharmacie thì David chợt nghe
dạ dày đau nhói lên như có nghìn mũi kim châm chích. Thoạt đầu anh tưởng ăn
không tiêu nên vội pha một gói Alka Selzer, nhưng uống xong cơn đau vẫn không
thuyên giảm. Anh nghe bụng mình sôi lên và thức ăn bên
trong như cứ chực trào ra. Không nhịn nổi, anh ôm bụng lăn lộn và gập
người như con tôm. Khi nghe vị mặn dâng trong cổ họng, anh chạy vào phòng
tắm rồi nôn oẹ ra trong bồn rửa mặt. Một thứ bầy nhầy hôi hám màu đỏ
bầm hiện lên, có xen vài giọt máu tươi. Anh vội vã súc miệng và khi ngẩng lên,
nhìn khuôn mặt mình phờ phạc và hốc hác trong gương, anh sững sờ quay đi
phía khác.
Sau phút hoảng hốt,
anh cố gắng lấy lại bình tĩnh. Chắc chẳng có gì nghiêm trọng đâu. Chẳng qua chỉ
là một cơn viêm dạ dày, nếu cố gắng chữa trị chắc sẽ đâu vào đấy. Nhưng anh thấy
mình mệt mỏi và đầu óc vô cùng căng thẳng. Anh định bụng sẽ xin nghỉ một thời
gian dưỡng sức. Anh sẽ bảo Carla xin phép để dẫn các con cùng đi. Lâu nay gia
đình không có dịp sum họp. Bỗng dưng anh thấy mình có lỗi với vợ con. Rồi để
tự trấn an anh cố hình dung đến những ngày lý thú sắp tới, nhìn các con tung
tăng trên bãi biển.
Sáng hôm sau cơn đau
vẫn không hề thuyên giảm. Những ngày kế tiếp cũng chẳng khá gì hơn. Khi David
đi khám, bác sĩ cho nhập viện khẩn để xác định bệnh lý.
Kết quả kiểm nghiệm
cho hay là anh bị ung thư bao tử !
David hoang mang vô kể.
Làm sao bây giờ đây ? Anh thẫn thờ như người mất trí. Chiều đó anh nằm
đợi ở nhà để báo cho vợ hay thì lại còn nhận thêm một cú điện thoại
bất ngờ. Bên kia đầu giây, luật sư của Carla thông báo là nên tiếp xúc với ông
ngay để dàn xếp vấn đề li dị ! David bàng hoàng. Lâu nay hạnh phúc
gia đình của anh đã tan thành mây khói mà anh vẫn không hề hay biết. Nhưng nỗi
đau xé ruột là tại sao một vấn đề sinh tử như thế, Carla lại không trình bày với
anh trước, để đến nỗi phải thông qua trung gian một người lạ mặt. Và oái ăm
thay, lại chọn đúng lúc này !
*
* *
Khi David nằm điều trị
ở bệnh viện, Carla mang một xấp hồ sơ đến yêu cầu anh chuyển tên cô
và các con làm sở hữu chủ villa và các trương mục ngân hàng. Lần đó David lặng
người đi và xấp giấy rơi tung xuống đất bay lả tả. Rồi anh thiếp đi trong mê
man, phần vì mệt mỏi và căng thẳng, phần vì không muốn nhìn người đàn bà, mà đằng
sau khuôn mặt mỹ miều kia có che dấu những âm mưu thâm độc, mà lâu nay anh vẫn
ngu ngơ không hề hay biềt.
Cho đến lúc này tôi vẫn
còn thắc mắc về chuyện Carla và David. Tôi nghĩ dẫu họ không hoàn toàn hạnh
phúc đi nữa, nhưng ít ra cũng có thể sống một cách bình thường như những cặp vợ
chồng an phận trên dương thế. Trên đời này đâu có thiếu gì những cặp vợ chồng sống
với nhau chỉ vì bổn phận,vì thói quen hay vì quyền lợi. Có thể sự mãi mê làm việc
của David đã tạo cho cô mặc cảm bị bỏ rơi, nhưng điều này cùng lắm là đưa đẩy
cô đi tìm nguồn an ủi ở một người đàn ông khác, tình cảm giữa hai người đổ vỡ
và đi đến ly dị. Nhưng tại sao Carla lại có thể nhẫn tâm như vậy ? Cái gì đã biến
tâm hồn cô trở nên xơ cứng và bạo tàn như thế, đến nỗi đòi hỏi và chọn
lựa thời điểm khi mạng sống của David mong manh như ngọn
đèn trước gió ? Tôi thấy trong thái độ ấy có dáng dấp của một sự trả
thù (?), có khi được xem như một cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa giai cấp
nam và nữ, phát sinh từ sự hiểu biết lệch lạc và cực đoan về phong trào phụ nữ
! Còn lòng tham lam bệnh hoạn và ý muốn ly dị của Carla, sau khi quyết
định có đứa con thứ hai ,là một điều vô cùng khó hiểu .
*
* *
Sau khi cắt bao tử và
lưu lại bệnh viện một thời gian xạ trị, sức khoẻ David dần dần trở lại
bình thường. Như vậy cái mầm bệnh hiểm nghèo đã được loại trừ khỏi cơ thể,
nhưng còn lại một niềm đau khác đang xé nát tâm hồn.
Ý là nước tự do, tuy
không cấm, nhưng do ảnh hưởng của toà thánh Vatican nên luật ly dị rất
rườm rà và phiền phức. Trước khi hoàn tất thủ tục cần phải ly thân từ
ba đến năm năm, có lẽ người soạn luật hy vọng là thời gian dài dằng dặc đó sẽ
có những đổi thay và các đương sự có thể xin rút đơn, tránh đổ vỡ gia đình.
Thời gian ly thân
David vẫn tiếp tục đi làm như cũ và mức độ làm việc của anh cũng không hề
thuyên giảm. Villa lúc này vắng ngắt vì không có Carla và các con nên lúc buồn
anh thường đến thăm tôi. Ít khi tôi thấy bạn đăm chiêu và suy nghĩ như thế. Có
khi anh ngồi lặng hằng giờ ,không nói tiếng nào.
Một hôm anh điện
thoại báo tin là sẽ ghé lại thăm tôi để bàn vài việc trước khi đi trực ở
Pharmacie. Tôi ân cần dặn anh đến sớm và nhân tiện mời anh dùng cơm chiều với
gia đình.
Khó thể nào tôi quên
được buổi chiều hôm ấy. Anh ngừng xe mô-tô trước nhà, tháo mũ casque cầm trước
bụng bằng hai tay, điệu bộ vô cùng thiểu não. Lúc bước vào anh chỉ kịp chào hỏi
qua loa rồi xin phép ngồi nghỉ chừng vài phút. Tôi bảo anh cứ tự nhiên. Thoạt
tiên anh ngồi tựa đầu lên bàn nhưng chỉ một lát sau, vẫn giữ nguyên
quần áo anh nằm xuống divan trong phòng khách rồi ngủ thiếp đi.
Tôi ái ngại nhìn anh,
lắng nghe tiếng ngáy nặng nề nhưng vẫn để yên cho anh ngủ. Hơn một giờ sau tôi
mới đánh thức vì sợ trễ công việc của anh. David bẽn lẽn nhìn tôi, miệng lí nhí
vài lòi xin lỗi không nghe rõ.
Bữa cơm diễn ra thật
vội vàng và không ai còn nhớ đến câu chuyện anh định nói với tôi. Trước khi từ
giã tôi khuyên anh nên hạn chế việc trực tối ở Pharmacie và việc sản
xuất cuối tuần, nhưng anh gạt đi “Không được đâu, tao phải làm. Tiền khám
chuyên khoa và thuốc men bây giờ đắt lắm ! “
*
* *
Một buổi tối muà
đông, David ngồi một mình trong căn nhà vắng vẻ. Anh nhìn trân trân những
đồ vật quý giá đang bày biện khắp nơi. Anh đứng lên mân mê cái tv đắt giá, bộ
HiFi tối tân, đặt chân lên tấm thảm Ba Tư trải nền phòng khách thênh thang. Anh
bước qua gian sản xuất mỹ phẩm… rồi mở toang cử sổ ngó ra vườn, sân
chơi của các con… Đó là tất cả những hy sinh của mình và anh từng
gán cho chúng những giá trị cao sang. Rồi đột nhiên một câu hỏi vụt loé lên
trong đầu. Những thứ ấy nay dùng để làm gì ? làm vương làm tướng gì chăng
? Nó có thể thay vợ, thay con, thay hạnh phúc gia đình ? Nó hàn gắn được những
đổ vỡ ? Nó sẽ giúp anh thu hồi lại mười mấy năm hoang phí trong ảo vọng
mang niềm hạnh phúc cho anh và những người thân ?
Không !
Thế tại
sao anh đã đổi trao những thứ vô tri này với một phần đời tươi trẻ của anh !
David không tìm ra
câu giải đáp. Đầu óc anh như muốn nổ tung. Anh tuyệt vọng .Và căm thù. Anh
hận đời. Anh oán người. Anh giận dữ với chính anh. Anh bỗng thấy ganh tức và đố
kỵ với tất cả loài người còn có nguyên bao tử, không bị cắt bỏ như
một phế nhân. Bỗng dưng ý thức nổi loạn trong anh lại bùng lên. Anh muốn đập
phá cho nư giận. Anh muốn thiêu hủy và đốt cháy tất cả. Chỉ cần một mồi lửa là
mọi vật sẽ tan thành tro bụi và không còn gì nữa.
David cười lên như một
thằng điên rồi dập cửa, bước ra ngoài. Anh cảm thấy cuộc đời thật là vô
nghĩa nên không còn thiết tha gì nữa. Anh sẽ rải xăng quanh
nhà rồi lái chiếc Mercedes xông vô cửa chính với mồi lửa trên tay. Ha ha
! ha ha ! Con đàn bà khốn nạn ngày mai sẽ đọc tin trên
báo. Và sẽ thất vọng biết bao, khi âm mưu chiếm đoạt đã không thành…
Nhưng gió đêm lành lạnh
bên ngoài đã làm anh bình tĩnh lại. Không, không thể như thế được. Cuộc đời đầy
những lọc lừa và xảo trá, có nhiều nỗi khổ đau, nhưng dẫu sao cũng vẫn còn đáng
sống. Tội gì phải hủy hoại thân mình, nhất là sau khi đã đối chọi và chiến thắng
căn bệnh nan y.
Anh thẫn thờ bước
ra đường rồi lầm lũi bước nhưng chẳng biết đi đâu cho đến khi thấy một quán nước
hãy còn mở cửa. Anh bước vào. Đã lâu lắm anh không đi lang thang như thế hay sống
qua đêm trong những quán mở khuya.
Ở một bàn
kê trong góc quán có một cô gái da đen khá đẹp, ngồi một mình. David nhìn cô và
mỉm cười, cô gái cũng cười theo, phô ra hai hàm răng trắng và đều như răng chuột.
Họ gợi chuyện làm quen và lúc sau cùng bước ra khỏi quán trong đêm
lạnh lẽo đầy sương mù. Anh đưa Julie về nhà mình. Khi ôm cô trong vòng tay rắn
chắc anh cảm thấy lòng mình ấm lại vã thân thể nóng bỏng của cô ta đã làm anh
rạo rực. Đã từ lâu anh không còn cái cảm giác buông xuôi. Bản năng đàn ông
trong anh vùng thức dậy và bừng lên ngọn lửa. Anh ôm siết cô vào lòng, ve vuốt,
chải những ngón tay trong mái tóc mềm mại của Julie. Mùi thơm của cô gái phả
lên nhè nhẹ như hun đốt thêm làm anh càng siết chặt bờ vai cô gái đang run lên
lẩy bẩy. Đến khi cởi hàng nút áo, trên làn da đen láng lộ ra đôi vú
dậy thì căng cứng, anh gục đầu xuống như đứa trẻ tham lam rồi quên
đi tất cả những cay đắng vừa qua. Tự dưng anh thấy mình vô cùng thương yêu cô
gái bất ngờ xuất hiện, đến từ một cõi nào xa vời vợi, đang vuốt ve
và âu yếm anh trong yên lặng, như một điều tự nhiên, không có gì phức tạp và đớn
đau.
David yêu cầu Julie ở
lại với mình và những chiều David đi làm về cô hay ngồi trên divan
chờ đợi. Từ xa trông thấy ánh đèn cửa sổ le lói, lòng anh bỗng trào dâng một cảm
xúc diệu kỳ và ngay lúc bước vô, anh ôm chầm lấy cô, nâng bổng lên và
quay một vòng rất mạnh.
*
* *
Hạnh phúc đến đột ngột
làm David ngây ngất. Nhưng chỉ vài tháng sau Julie lặng lẽ bỏ đi không một lời
giải thích. David không làm sao hiểu được lý do. Nhà cửa lúc cô đi vẫn hoàn
toàn ngăn nắp và không hề mất mác một vật nhỏ nhoi nào. Con chim đen của anh đã
vỗ cánh bay đi như những ảo ảnh khác trong đời .
*
* *
Hơn năm sau bệnh tình
của David tái phát nên phải nhập viện. Lúc này tóc anh đã rụng nên không
còn lọn tóc thường rơi phủ mắt. Tôi linh cảm là anh sẽ không còn sống
bao lâu nữa khi những tế bào ung thư theo mạch máu lan đi, nên mỗi tuần đến
thăm anh ít nhất là hai lần. Anh cũng thừa biết thế, nhưng bản năng sinh tồn đã
giúp anh chống chỏi với nỗi nguy hiểm cận kề, thế nhưng nỗi đam mê công việc
trong anh vẫn không hề giảm sút. Một hôm anh bảo :
Mầy biết không, hồi sáng cô ý tá có thoa một loại kem rất mới để cạo râu cho
tao, mịn và mùi thơm rất dịu. Tao đang nghĩ là hôm nào sẽ làm một
công thức như vậy, chắc lời cao.Tôi yên lặng, không biết nên cười hay nên khóc.
Đến nước này anh vẫn còn nghĩ đến chuyện làm ăn và tin rằng
tiền bạc sẽ giải quyết được mọi điều .
*
* *
Bẵng có một tuần bận
việc không đến thăm mà khi trở lại tôi khựng lại trên ngạch cửa. Tôi
ngần ngừ không biết nên vào hay chăng. Lúc đầu tôi cứ tưởng là bệnh viện đã đổi
phòng cho David.
Trước mặt tôi hình
như không phải là David. Đó là một người đàn ông cao lêu nghêu và gầy kinh khủng.
Hai đường rãnh thật sâu kéo dài từ sống mũi đến cằm. Hàm râu lâu ngày không cạo,
lởm chởm phun những chấm đen đầy trên khuôn mặt. Anh đang liếm một que kem, xin
lỗi người bạn đã một thời gắn bó với tôi, hình ảnh đó giống như con
khỉ đói trong sở thú. Tôi bụm mặt bước ra ngoài, chạy dọc theo hành lang và
khóc lên nức nở. Chuá ơi ! sao bạn tôi lại đến nông nổi này !
Tôi quay trở vào sau
khi lấy lại bình tĩnh và lau khô nước mắt. Trong David chỉ còn đôi mắt sáng,
nhưng tia nhìn hình như mang nặng những lo âu.
Khi thấy tôi David cố
gượng cười. Sau vài câu thăm hỏi thường lệ, anh cho biết là ăn không ngon, chỉ
có khát, và bảo tôi tẩm khăn ướt đắp lên trán. Lát sau anh nói lâu ngày không vận
động nên thấy tù túng quá. Tôi đỡ anh ngồi lên xe lăn, thu xếp các ống nhựa,
rồi đẩy anh ra khỏi phòng, đi đến cuối hành lang rồi quay lại. Đến vòng thứ hai
anh bảo tôi ngừng và yêu cầu tôi mở cửa. Lúc đó trời đã vào thu và
tôi sợ là gió lạnh về chiều sẽ làm anh khó chịu, nhưng giọng nói của anh nghe
sao tha thiết quá. Tôi dìu anh đến bên cửa sổ và mở tung cửa kính. Anh gượng đứng
lên, mắt đăm đăm nhìn khoảng trời mở rộng. Anh đứng bất động một đỗi rất lâu rồi
quay sang tôi : “Nhìn kia Trung, những đám mây kia đẹp quá. Nhẹ
nhàng và mềm mại như bông. Mầy có thấy từ mặt trời đỏ rực những tia nắng nhiều
màu xuyên qua mây rồi chiếu xuống theo hình
nan quạt kia không ? Hoàng hôn ! Một cảnh sắc tuyệt vời.
Thú thực đây là lần đầu tiên tao thấy nó. Trong đời tao, chưa
bao giờ tao có thì giờ, Tao chỉ nhìn chứ chưa
bao giờ thấy“.
Tôi lặng đi.
Có cái gì cay đắng chẹn ngay cổ họng nên không thốt ra lời.
Dường như David còn nói gì thêm, mà tai tôi ù đi, mơ hồ, nghe không rõ .
Về sau tôi hay là
ngay đêm ấy David đã vĩnh viễn từ giã cõi đời. Năm ấy bạn tôi chỉ vừa
bốn mươi lăm tuổi .
Milano 9-1995
Hành Trang Ngày Trở Lại
Trương Văn Dân
Xúc động trào dâng cõi lòng!
Trả lờiXóaCon người ta sống tham vọng vật chất!
Mưu cầu mong muốn hạnh phúc!
Cuối cùng là sự đổ vỡ!
Tan tành tổ ấm bất ngờ đau thương!
Nỗi đau thể xác tâm hồn!
Còn gì để lại mà trông đợi chờ?
Tuyệt vọng khủng hoảng bơ vơ!
Buông xuôi tất cả điểm tựa mất rồi!
Cho nên cuộc sống cần người..
Đầu ấp tay gối vẫn lời đấy thôi!?
Không yêu cũng trách nhiệm đời?
Sống là chia sẻ trọng người kế bên?
Không thôi rơi vào ưu phiền!
Mối tình mây gió không tên đầy buồn!
Con người tham vọng tính toan
Của cải không thể hoàn toàn là hay?
Hạnh phúc đánh đổi tiền tài!
Tiền tài mua sức khỏe ngay được nào?
Tiền bạc có nhiều dồi dào
GIải quyết đẹp chuyện tính sao vuông tròn
Tình nghĩa bình yên cuộc sống
Không gì tổ ấm vợ chồng có chung?
Tiếng nói thông cảm đồng lòng..
Con cái động lực hết lòng chăm lo
Hạnh phúc bình thường nho nhỏ
Vẫn là cuộc sống ước mơ nhiều người?
Đừng đỏi hỏi quá nhu cầu
Thì sẽ chẵng có buồn rầu đi theo?
Chạy theo vật chất chi nhiều !
Để thân khốn khổ tiêu điều xác xơ!?
Câu chuyện trên cho thấy rõ
Tiền bạc hành hạ tơi tả thân người!
Cuối cùng đánh mất cuộc đời!
Cuộc đời tuổi trẻ lầm lũi chạy đua
Vui thú riêng mình chẵng có!
Để rồi giây phút bất ngờ nhận ra..
''Sống chẵng có gì cả!?''
Chỉ là toàn BUỒN!''