ĐỌC
MUỐN QUAY VỀ NÚI – TẬP THƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH LƯƠNG
Xin trích lại lời giới thiệu của tác giả
tập thơ Muốn quay về núi (NXB Thanh niên, 2011):
nguyễn đình lương
tuổi quý mùi
mót lang bòn đỗ
bán gùi mua chai
học hành cũng chẳng ăn ai
kéo vô ba sợi lai rai lắm điều
bình sinh khôn ít dại nhiều
hiện còn phiêu dạt quán lều
Tây Sơn
(bên dưới là chữ ký lương và đóng dấu triện đỏ vuông vắn).
Tôi thấy có điều rất lạ anh chỉ viết hoa từ
Tây Sơn: hiện còn phiêu dạt quán lều / Tây Sơn. Có
thể với anh dù là cái tên, cái tuổi, kể cả đời sống vật chất và tâm hồn của mỗi
người rồi cũng phiêu diêu. Chỉ có địa danh nơi anh sinh ra mới đầy tự hào với
hai chữ Tây Sơn. Đất nước và con người quê anh trong Muốn quay về núi là những gì gần gúi thân
thương nhất.
Cả tập thơ không dày lắm chỉ với bốn mươi
lăm bài. Nói theo cách diễu là bốn năm bài, con số thật ít mà ai dám sánh bằng!
Cái tình thì mênh mông của một kẻ sĩ "giang hồ” bất đắc dĩ như không giống
ai, nhưng có lẽ không ai giống mình. Đó là phong cách Nguyễn Đình Lương, người
con đất võ đầy hào khí, thơ lại sảng khoái làm sao:
Lục bát tràn túi Nguyễn Du
Rớt xuống thiên hạ gom thu hết rồi
Chỉ còn nước nữa mà thôi
Làm thơ xà bát bên đời lao xao
( Thưa )
"xà bát” ngôn ngữ đời thường đã được
anh đưa vào thơ quả là điều táo bạo xưa nay hiếm. Tôi cảm thấy giật mình trong
cách nhắc khéo của anh với những kẻ huênh hoang tự đánh giá mình quá cao
"thơ mình vợ người”của một số người có tuổi không tên. Có lẽ họ nghĩ đơn
giản thơ lục bát chỉ là cách gieo vần như trong diễn ca. Theo từ điển Thuật ngữ
văn học thì "diễn ca là thể loại văn vần dùng để biểu hiện một nội dung
thường là không đặc trưng cho thơ ca” hướng người đọc là tầng lớp nhân dân
lao động trong thời kỳ những năm bốn mươi của thế kỷ trước, những bài diễn ca
trong thời kỳ này ra đời gắn liền từng đối tượng, từng công việc của nhân dân
ta, để họ nghe dễ nhớ dễ thuộc cùng nhau thể hiện lòng yêu nước của mình. Còn
thơ có nhiều tầng nghĩa hơn, giàu tính nghệ thuật hơn, hãy cùng anh lắng "nghe”:
Đêm đông trăng sáng không ngủ được
Nằm nghe thềm vắng nhú rêu xanh
Nghe lạnh xô nghiêng giò lan dại
Nghe ta tóc trắng mộng chưa thành
(Đêm đông trăng sáng)
Bất chợt nhớ đến mấy câu thơ " Đã
nghe nước chảy lên non/ Đã nghe đất chuyển thành con sông dài/ Đã nghe gió ngày
mai thổi lại/ Đã nghe hồn thời đại bay cao…” trong cách chuyển động từ
"nghe” bằng âm thanh của sự vật đến cảm xúc tư duy nhận thức của
con người trong sự đổi mới đất nước ta từ những tháng ngày gian lao vất vả đã
hiện ra trước mắt của nhà thơ lớn như Tố Hữu. Tôi không dám đưa ra để đối
chiếu, mà chỉ đọc ở thơ Nguyễn Đình Lương sự trăn trở của đêm đông không ngủ
được. Mắt nhắm lại nghe bao điều không thành tiếng đó là sự sống dù rêu trên
thềm vắng, đến cái lạnh vô hình thật tàn nhẫn làm sao đã xô nghiêng giò lan lại
chơ vơ đơn độc cứ buốt quá trong gan ruột lúc này. Ngoại cảnh đã thế, anh ngẫm
đến mình "Nghe ta tóc trắng mộng chưa thành” lan tỏa ra giữa thời
gian tiếp diễn và không gian tĩnh lặng trong khoảnh khoắc chừng mực nào anh cảm
nhận sẻ chia cùng nhân vật trữ tình trong một bức tranh Đêm Đông Trắng Sáng
sống động nhờ những từ " trăng sáng, nhú, xô nghiêng” mà day
dứt "mộng chưa thành” biết chừng nào!
Trăng trong thơ Nguyễn Đình Lương bàng bạc
với thắng cảnh bằng cây bút hội họa đang thăng hoa: " Đá, đá chập
chùng, trăng mờ tỏ / Mơ hồ xanh cây lá đôi bờ / suối, suối quanh co thác ghềnh
khốn khó / dựa vào đâu sương khói bơ vơ ” thêm một chút lãng đãng:
" Ta nằm đây như không như có / em kề bên như có như không / lồng
lộng giữa trời cao ai bỏ ngõ / mà bềnh bồng ta với mênh mông” (Trăng Hầm Hô
và Em) không là trăng của ảo ảnh mà thu hút trong cái nhìn rất chi tiết đầy
hứng thú của anh nào vói tới: Tóc đã thành tro vương tay trắng / Nửa
đời phiêu bạt, nửa trăng xa (Tranh cổ đĩa xưa), những luyến tiếc thuở
nào: "Đêm trăng ngồi lại / Bên cầu Ba La / Dấu xưa gió đọng / Nhớ tình
xót xa / Vô tư nước chảy / Bạc bẽo mây qua / Buồn khuya động cửa / Chịu lời má
la” trong cách chơi chữ thật tinh tế. Bên cầu Ba La ấy tình yêu mở ra đong đầy ngọt ngào ý vị. Tiếng nói trái
tim thúc giục hẹn hò, dù buồn khuya động cửa nhẹ cũng bị phát hiện chịu
lời Má
la.
Cũng chừng mực thời gian trong Muốn quay về núi là sự nhàn nhã thảnh thơi
tận hưởng bên tách trà sớm, nhà thơ phát hiện ra "Rưng rưng xanh mộng
sân rêu vắng / Chợt tiếng chim lồng động cõi riêng”( Trà Sớm). Tiếng chim
trong lồng kia của sự gò bó tù túng. Con người lại chỉ biết mua vui quên nghĩ
sự tự do của kẻ khác là sao! Rồi đến Rượu Chiều: "Một sân, một chiếu,
một chai / Một mình một bóng lai rai một chiều” mới thấy hết nỗi cô đơn của
thi sĩ. Cô đơn chồng chất cô đơn biết ai cùng sẻ chia giữa phố phường đông
người mà lắm chật chội, anh khát khao đi tìm bầu bạn: "Gánh rượu lên
non uống với rừng/ Bát ngát xanh mù xanh lớp lớp/ Lưng chừng vượn hú khói lung
lung” (Gánh rượu lên non).
Rồi sau cơn tỉnh lại thi sĩ mới ngộ ra:
Chiêm
bao mộng giữa ban ngày
Tỉnh ra
mới biết uống say quá trời
Hỏi
chai - chai chẳng có lời
Hỏi ly -
nghiêng ngửa
Hỏi đời
- bể dâu
Hỏi
người - còn ở đẩu đâu
Hỏi
mây, hỏi gió - dãi dầu tới lui
Hỏi
lòng - chẳng biết buồn vui
Hỏi
thiên thu - chỉ sụt sùi cát bay
(Sau cơn tỉnh lại)
Cách ngắt nhịp trong câu bát " Hỏi
ly - nghiêng ngửa / Hỏi đời - bể dâu” thật cân xứng đối lập không đơn thuần
như có sẵn cơm canh trong nồi. Giữa tiệc rượu chung vui cho ta quên hết sự đời
nhục vinh trong chốc lác, cho ta quên phiền muộn ưu tư sướng khổ tháng ngày.
Thơ Nguyễn Đình Lương, tình ngụ trong cảnh: " Dù gì lầm lũi dặm
sương / Bóng đêm cạm bẫy vô thường xót xa” (Đêm núi - nghe tiếng con Dù Gì)
là bài học chiêm nghiệm
trở lại đời thường chất chồng phiền muộn lo toan bộn bề, những vàng thau lẫn lộn, những mưu ma chước quỷ đầy dẫy trước sau cũng chỉ vì "hữu danh và hữu lợi” riêng mình. Se sắt lắm trong cảm xúc thơ cháy bỏng tình đời, ta cứ ngỡ cuộc say nào cũng cho anh già thêm tuổi, thêm một vết nhăn trên gương mặt trong đáy lòng là cạn nỗi niềm, nhưng không, gió nối mây bay lồng lộng giữa trời cao xanh thẳm, mát tận giếng sâu:
trở lại đời thường chất chồng phiền muộn lo toan bộn bề, những vàng thau lẫn lộn, những mưu ma chước quỷ đầy dẫy trước sau cũng chỉ vì "hữu danh và hữu lợi” riêng mình. Se sắt lắm trong cảm xúc thơ cháy bỏng tình đời, ta cứ ngỡ cuộc say nào cũng cho anh già thêm tuổi, thêm một vết nhăn trên gương mặt trong đáy lòng là cạn nỗi niềm, nhưng không, gió nối mây bay lồng lộng giữa trời cao xanh thẳm, mát tận giếng sâu:
"Buổi
trưa nắng khát
Nối sợi
dây gàu
Thả
xuống giếng sâu
Xách
lên đầy gió”
(Xách nước)
Khung cảnh làng quê là lũy tre rợp bóng
trưa hè, là giếng nước mát rượi trong veo, là hình ảnh mẹ tảo tần hôm sớm, là
bữa cơm đổi món ngon miệng cho cả nhà: "Nắng cong lưng mẹ vườn nhà /
Gió nam rốc cháy xót xa mùa màng / Nẻ tay một mớ lá giang / Nấu chua chan đỡ,
chờ sang mưa rào”(Canh lá giang mùa nắng). Cái khó khăn có còn dai dẳng chỉ
theo mùa nắng, mùa mưa khắc nghiệt ở từng vùng miền. Ta cùng anh chia niềm vui
nho nhỏ đâu thể nào quên: "Nhổ gừng làm mứt / Ngã chúi trầy đầu / vợ
đâm muối xát / Vẫn còn có nhau!” ( Chuyện cuối năm). Từ câu chuyện cuối năm
nhổ gừng làm mứt là cảm xúc sâu lắng nhất, là bài học khuyên nhủ cho tình vợ
nghĩa chồng hãy chăm chút cho nhau đến tuổi già răng long tóc bạc xin đừng quên
nhau. Những khi trống vắng, thi sĩ biết sẻ chia cùng ai, cô đơn vây quanh anh,
nỗi nhớ nẩy mầm: "Cu lồng gù vô cớ / Khói thuốc bay vu vơ / Em đi nhà
quạnh quẽ / Hoa mận trắng hiên chờ”(Vợ vắng nhà). Cả bài tứ tuyệt không một
từ ngữ nào miêu tả trực tiếp nỗi nhớ mong, anh chỉ trách ngoại cảnh cu lồng gù
vô cớ, khói thuốc bay vu vơ, nhà thì quạnh quẽ lắm, và trong tầng nghĩa ẩn dụ
hoa mận ngoài kia đã rụng trắng hiên chờ rồi. Bao nhiêu đấy đã nói hết nỗi lòng
tha thiết của anh với người vợ dịu hiền gần gũi sớm hôm chia ngọt sẻ bùi, làm
sao anh quên được!
Thơ Nguyễn Đình Lương là thơ của Dừng Bước
Giang Hồ: " Sải tay nằm ngửa nhìn trời / Dưới lưng cỏ dại thẹn đời
đất nâu…”là thơ của Mùa Xuân Lỡ Hẹn: " Sải tay nằm ngửa nhìn
trời / Sắc không lồng lộng một thời xuân qua”. Phải chăng sự lặp lại "Sải
tay nằm ngửa nhìn trời” là sự buông xuôi tiếc nuối một thời xuân
qua! Hay bởi cái tính đa mang: "Ta ngồi chóc ngóc bên cầu / Lòng sông
Côn trắng, cát bồi trớ trêu / Tong teo dòng nước liêu riêu / Trường Trầu bến
cạn hắt hiu tháng ngày…”/(Lục bát bên cầu Kiên Mỹ). Phải chăng những địa
danh Sông Côn, Trường Trầu,… đã gắn liền với lịch sử đất nước dân tộc hào hùng,
gắn liền với đời sống của nhân dân quê anh suốt đời lam lũ, và gắn liền với anh
lòng biết ơn tưởng nhớ khi một mình đến đây! Đôi lúc anh muốn giải tỏa bộn bề:
"Muốn quay về núi / Rũ bụi thị thành / Nghe chim ríu rít / Chuyện tình
lá xanh…/ Nghe suối thủ thỉ / Với lòng biển xa / … Muốn quay
về núi / Gối đầu cỏ hoa / Nghe trong hương thoảng / Một đời phôi pha /(Muốn
quay về núi). Trong tứ thơ bốn khổ, sự lặp lại Muốn quay về núi như
là khao khát thiết tha, muốn giã từ tất cả những mưu cầu danh lợi, tìm riêng
góc nhỏ bình yên hồi tưởng lại đời mình trên bước đường vạn dặm, từng gặp những
gập ghềnh chông gai mỉm cười với giây phút thảnh thơi quý giá nhất lúc này. Và
giờ đây, có lẽ ước muốn anh đã thành hiện thực, anh đang thong dong nơi suối
ngàn đâu đó, hay đang gối đầu lên cỏ hoa mà ngắm những vì tinh tú đang lấp ló
giữa trời cao vẫy gọi khi tiếng đàn thánh thót đâu đó vọng về.
Muốn quay về núi không
chỉ là tập thơ nói lên tiếng lòng nhạy cảm sâu đậm chân tình giàu tính nhân văn
đáng trân trọng mà ta còn thưởng thức những bức vẽ chân dung phái đẹp, cây đàn,
hoa lá, … đã thể hiện ở Nguyễn Đình Lương, một cây bút tài hoa lão luyện trên
đất võ hào hùng.
18.7.2012
Nguyễn Thị
Phụng.
Úi ùi! Hôm đi dự Đêm Hội Ngộ Thơ Thầy Lương thì NgThiPhung gặp qua vẹt, phải quay về. Thế mà đọc và viết về Muốn Quay Về Núi thật chân tình.
Trả lờiXóaChị Phụng ới ời ! Sải tay nằm ngửa nhìn trời có phải là đã Dừng bước giang hồ, là buông xuôi nuối tiếc một thời đã qua đâu !?
Chị Phụng ơi! Đọc hết những dòng viết của chị em đã khóc nhiều lắm bỡi lẽ lũ chúng em (6 đứa em của Anh) chẳng ai có đủ chữ để hiểu Anh tường tận sống chung với Anh bao nhiêu năm gần hết đời người mà không nhìn thấy nỗi cô đơn trong Anh đến vậy.Trước Giải phóng chúng em sợ Anh đến nỗi không dám gần,sau năm 75 nhìn Anh say nghiêng ngã chúng em hờn trách...Thật có lỗi cho sự ngu muội kem cõi của mình không đủ để hiểu và yêu Anh khi Anh còn sống. Cảm ơn chi nhiều
XóaChia sẻ với Em gái một chuyện cũ :
Xóa-Vào một ngày cuối năm ,Anh đi đâu về
trên tay cầm 1 quyển Nguyệt san "Xuân Tuổi Ngọc " vừa gõ nhẹ lên đầu em gái,vừa nói:
-Nè, thay lì xì
Không biết lúc đó Bạn nghĩ gì ? Nhưng mìnhthấy vui lắm ,mặc dù " vui ké" .Bấy giờ ở PP nhà sách Phước Hậu về không hơn 2 quyển đâu.
Em gái,thật là Hạnh phúc khi được làm em của Anh !
Đồ Đi Đồ Lại ơi!Có đò đi đồ lại thì nét bút mới đậm hơn. Đọc thơ cũng vậy.Làm sao hiểu hết cái tình cái cảnh của thi sĩ?!
XóaCảm ơn bạn đã sẻ chia. Chúc vui.
Cái tay đau đến nay vẫn còn âm hưởng ngày ấy ... Vậy mà chị Phụng vẫn còn viết còn bấm máy và chân vẫn đi khắp dặm đường với các cuộc họp mặt anh chị em yêu mến Văn Thơ. Bài chị viết về người thơ Tây Sơn là người thấy của QTBK xưa đó.
Trả lờiXóa