Hình
như cứ mỗi độ cuối năm, các chợ là nơi dự báo sớm một cái Tết nữa lại đến. Năm
đó, còn già một tháng nữa mới tới Tết con Mèo, nhưng ở vùng Phủ An, từ chợ Phủ
đến các chợ quê hàng hoá đã nhiều hơn ngày thường, cảnh chợ Tết nhộn nhịp đã sớm
diễn ra.
Các
bà nội trợ đã sớm đi chợ mua vải vóc về may sắm quần áo Tết cho cả nhà, ưu tiên
cho trẻ em và người già. Chọn vải gì? Màu gì? Đã có ''tiêu chí'' sẵn: “Bà già mặc
áo đỏ trẻ nhỏ mặc áo xanh” (Tục ngữ), còn quần lĩnh nón quai thao dành cho phụ
nữ, các tiểu thư. Cắt may ở đâu? May máy nhanh mà tốn tiền, may tay chậm mà các
bà ''tự túc'' được. May ở đâu thì cũng phải bảo đảm có bộ quần áo mới để sáng mồng
một Tết: “Những thằng cu tha hồ khoe áo mới” (Đoàn Văn Cừ).
Các
bà mua đường, nếp, đậu đỗ, gừng cay về làm các loại bánh, mứt. Chọn gừng thì cứ
bảo nhau chọn gừng Xuân Quơn (tên làng cũ, sau là Khu 6 - thuộc Quy Nhơn) là
ngon nhất, vì vừa trắng vừa cay. Làm mứt gừng phải trải qua nhiều ''công đoạn'':
Từ bóc vỏ gừng đến ngâm rửa sạch, luộc chín, rồi xào gừng với đường trên lò
than hồng, chuyển qua lò than ủ nóng trong lớp tro than cháy âm ỉ, cho tới khi
chảo gừng khô rang, mứt gừng mới ngon. Bên cạnh mứt gừng xào, còn có mứt gừng
xăm (nguyên củ), mứt bí đao, cách làm không khác mấy. Làm bánh “bảy lửa”, phải
trải qua bảy ''công đoạn'' làm bánh trên lửa than mà công đoạn cuối cùng là lăn
mè, mặc lớp áo cho cái bánh. Làm bánh khô, bánh in thì phải rang nếp, xay bột,
chọn khuôn trái đào, trái lê, trái mãng cầu, hay khuôn chữ Phước, chữ Thọ tùy sở
thích. Rồi mới bắt đầu ngồi in, gõ từng bánh một rơi trên mặt nia để chờ đầy
nia đem phơi nắng, hong khô. Nguyên liệu làm bánh hoa quả là bột nếp hoặc bột đậu
xanh và phẩm màu. Thường thì nắn quả ớt, quả khế, quả lựu, quả lê, hoa hồng,
hoa cúc... “Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” (Kiều - Nguyễn Du) hoa lựu phải
đỏ, quả khế non thì xanh, quả khế chín thì vàng. Các bà nội tướng dành những
ngày giáp Tết đi chợ mua sắm thịt thà, gà vịt, lươn, cá... Tiếng gà vịt kêu cáp
cạp… cúc cục… thả dọc đường đi, buổi chợ về. Các ông mày râu cũng đi chợ Tết:
“Áo cụ Lý bị người chen sấn kéo” (Đoàn Văn Cừ). Họ mua rượu, trà và các thứ “đồ
lề”. Thường thì chai rượu Mai Quế Lộ hay chai rượu Bàu Đá đựng trong vỏ chai
sen khằn nút, gói trà Tàu Tín Thái hay Hòa Hưng gói trong hai lớp giấy, giấy in
nhãn hiệu trà ở ngoài, giấy bạc ở trong, cốt giữ kín hơi trà ướp hương nhài,
hương sen… Nhiều ông mua đồ thờ phượng, đồ trang trí nhà cửa. Ghé lại chỗ này
mua cặp đèn đồng của làng đồng Bả Canh – Đập Đá, bộ bình phong tam sơn gỗ cẩn
xà cừ của các làng cẩn Trung Định, Cẩm Tiên (An Nhơn); ghé lại chỗ kia, trước
xem ông thầy đồ viết chữ Hán để tấm tắc khen: “Hoa tay thảo những nét / Như phượng
múa rồng bay” (Vũ Đình Liên), sau chọn mua tấm bức thờ gia tiên, không chữ Càn
khôn thì chữ Thái sơn, chữ Phước hoặc chữ Thọ viết mực xạ đen nhánh trên giấy bồi
hồng điều. Tấm bức vừa được thầy đồ viết chưa ráo mực. Lại cũng có nhiều ông
mua tranh tứ bình Mai – Lan – Cúc - Trúc, Mai – Điểu – Tùng - Lộc hoặc tranh
Bát tiên, tranh Nhị thập tứ hiếu do mấy ông Tàu Chợ Lớn – Sài Gòn in màu hàng
loạt trên công nghệ in hồi ấy. Tranh Đông Hồ, ai yêu nghệ thuật dân gian thì
mua, thì khen: “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong /Màu dân tộc sáng bừng trên
giấy điệp” (Hoàng Cầm). Những Cu Tý, những Gái Nụ theo cha mẹ đi chợ Tết là để
vòi vĩnh cái con gà sống đất nung, cái trống rung phất bong bóng lợn, cái kẹp
tóc thắt con rít, xâu chuỗi hạt cườm… Từ ngày hăm ba ông Táo về Trời trở đi, chợ
Bình Định là chợ phủ, nên còn nhóm đêm nữa. Thương cái chợ đêm Bình Định đèn dầu
leo lét, chỉ có mấy gian hàng tạp hóa mới có ngọn măng sông thắp sáng, soi tỏ tủ
hàng và gương mặt xinh đẹp của cô bán hàng. Mấy người giàu thường mua sắm thoải
mái, vài buổi chợ là đủ cho một cái Tết. Nhưng còn người nghèo, số đông, thì phải
chạy Tết theo cách ăn vay cày trả, ăn trước trả sau. Ở trong làng, có một số ít
nhà gần như khỏi phải mua sắm Tết. Hàng hưu quan, Tổng lý có thuộc hạ, chủ điền
có tá điền, thầy đồ có học trò, cha mẹ vợ có con rể mới, ông mai dong có cặp vợ
chồng mới cưới... đi tết cho. Người dưới đi Tết người trên, người được giúp đi
Tết người ban giúp. Vật phẩm đi Tết: mớ gạo nếp ngon, đôi gà trống thiến, hoặc
cặp rượu, cặp trà… Không có tục đi Tết chơi đậm bằng phong bao phong bì, vàng bạc,
những thứ trị giá nhiều tiền.
Trên
con đường làng An Định ngày 30 Tết, người về Tết đông lắm, trong đó có anh Cần.
Họ từ bến sông đi lên, từ cổng làng đi vào. Chân họ bước mà lòng họ nôn nao,
trông cho mau tới nhà.
''Trời
tối như đêm 30'' quả là như vậy và chùa làng đã ngân xa tiếng chuông. Nhà trên
đèn nến sáng choang. Cha cúng giao thừa, mừng tuổi ông bà, đón mừng Tân Xuân, cầu
cho năm mới ''Mưa thuận gió hoà, Quốc thái dân an, Nhà nhà hạnh phúc''. Trong
khi cha xuất hành đi về hướng Đông Nam mà cha bảo là hướng Tài thần (thần đem lại
giàu có) và đi hái lộc ở chùa thì mẹ ở nhà bày sẵn mâm bánh tét nóng hôi hổi, vừa
mới vớt từ nồi bánh ra, mùi bánh tét thơm lựng. Khi cha về ngồi vào mâm, mẹ và
cả nhà cùng ngồi. Cha mời mẹ một chén rượu mừng Xuân, cho phép anh Cần được uống
một chung rượu Tết và cha nói điều hy vọng của cả gia đình mình trong năm mới.
Thật là một cảnh vui vẻ, hạnh phúc gia đình ngay trong giờ phút bước sang năm mới.
Sáng
ngày mồng một Tết, nắng mới thủy tinh và trên cành cây xoài lá lụa nơi góc vườn
có nhiều tiếng chim ca. Vạn vật đang chào đón chúa Xuân. “Mồng một tết cha” (Tục
ngữ); đầy nhà lời chúc mừng tuổi mẹ cha Trường thọ, sum vầy con cháu, rồi phong
bao lì xì, riêm bánh, chén rượu mừng Xuân, thơ khai bút (của cha và mấy bạn già
của cha vừa mang đến)… Sáng Mồng một Tết, chợ Gò (Trường Úc, Tuy Phước) nhóm, mỗi
năm một phiên duy nhất. Chợ đông vui lắm, người đi chợ mặc quần áo đẹp, lớp trẻ
giao duyên, cụ ông xem tranh xem bức, cụ bà mua lộc Bà gồm những thếp trầu mướt
rượt, chùm cau xanh… để cầu tài, cầu lộc cho cả năm mới. Mồng hai, người trong
làng ra hội đình, đi chúc Tết với nhau. Thường thì chúc Thọ, chúc Sang, chúc
Con, chúc Giàu… Câu chúc thì đã cũ mòn mà tin thì vẫn tin: “Lẳng lặng mà nghe
nó chúc nhau / Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu… Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
/ Đứa thì mua tước đứa mua quan…” (Thơ Trần Tế Xương). Ba ngày Tết cứ thế trôi
qua. Chiều mồng ba thánh thót giọt mưa Xuân, cha cúng tiễn đưa trước bàn thờ
gia tiên.
Quê
tôi tháng giêng có biết bao là lễ hội: Lễ hội Đống Đa mồng năm Tết, lễ hội Chùa
Bà - Cảnh Hàng (Nhơn Hạnh), hát hội Chùa Ông (thành Bình Định), hát hội Chùa
Kén (Phương Danh - Đập Đá)… Người xem hội đông, đủ nam phụ lão ấu, tuồng tích
hát hội thì Cổ Thành, Huê Dung Lộ, San Hậu Thành… Trò chơi thì đấu vật, nhảy
bao, hát giao duyên… do các trai thanh gái lịch trong làng thi đấu và biểu diễn.
Mở đầu đám hát, bao giờ cũng diễn màn Tam đa để chúc Phúc – Lộc – Thọ… Còn lễ hội
là còn ''ăn Tết'', hết lễ hội mới bắt tay vào việc nông tang: “Tháng giêng ăn Tết
ở nhà /Tháng hai cày ruộng mưa sa đầy đồng” (Ca dao). Anh Cần lại theo mấy người
đi Biển Hồ, Bàu Cạn để làm phu trồng chè, trồng cà phê…
Bây
giờ Tết xưa xa ngái, thương nhớ làm sao! Chợ đêm Bình Định không còn nhóm từ
nhiều năm nay. Nghề nữ công bánh trái của phụ nữ quê tôi vốn được lưu truyền
lâu đời, nay phần lớn các gia đình không còn giữ; mẹ có tài nữ công bánh trái một
mai đủ trăm tuổi mang theo, không truyền lại được cho con gái, con dâu. Chao
ôi, còn thương còn nhớ, anh con trai khoảng 18, áo sơ mi, quần Tây gò lưng đạp
xe trên đường làng, sau lưng đèo cô con gái tuổi trăng tròn, áo dài thiên
thanh, quần lĩnh trắng, nón ngựa Kiều Nguyên với đủ thứ lỉnh kỉnh đi theo: cặp
gà trống thiến nhốt trong cái giỏ nan tre, cặp rượu, cặp trà bao giấy bóng đỏ đựng
trong cái làn mây... Hôm đó là một sáng tháng Chạp, gần Tết. Họ là cô dâu, chú
rể mới làm đám cưới hồi đầu tháng chạp Âm lịch, nay theo tục lệ ''đi Tết'' cha
mẹ vợ và bà mai dong đấy.
Huỳnh Kim Bửu
Cố GS. TH QuangTrung
BinhKhe
(1939 - mồng 6 tháng giêng Quý Tị 2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét