Mùa
Đông lạnh lẽo đang qua, nắng ấm mùa Xuân sắp đến, lòng chúng ta ai cũng đang
nao nức đón chờ và hy vọng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến trong năm mới. Người
nghệ sĩ, vốn dĩ mang tâm hồn nhạy cảm chính là những người đầu tiên nhận biết
được những tín hiệu của đất trời : văn thi nhạc hoạ tha hồ nắm bắt cảm xúc của
mình, từ tiếng kêu ríu ít của cánh én dặt dìu, đến bóng chiều rớt trên giàn
thiên lý, từ cánh hoa mai vàng đang ướm nụ hoặc chồi đào sắp nở... Và cùng với
nụ hoa đào tươi thắm, ông đồ đã trở thành biểu tượng của mùa xuân.
Vì
mỗi khi nhìn sắc thắm hoa đào giữa nắng xuân, chúng ta không thể không nhắc đến
bài thơ Ông đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên. Ở Việt Nam, nhắc đến Tết, có lẽ không
có bài thơ nào được phổ biến rộng rãi như bài thơ "Ông đồ". Lời thơ mộc
mạc và giản dị là sự hoà quyện của hai nguồn cảm hứng: “Lòng thương người và
tình hoài cổ” (Hoài Thanh).
Mỗi
dịp Tết, trước thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ đang tàn và năm mới
sắp đến người Việt xưa thường “xin chữ” viết trên giấy hồng điều, dán trước cửa
để gửi gắm những mong ước, khát vọng của gia đình mình trong năm mới.
Chữ
đó là chữ Nho, thứ chữ tượng hình rất giàu ý nghĩa. Người có hoa tay, có thể viết
mà tưởng như đang vẽ tranh.
Đầu
thế kỷ XX, trên các đường phố Hà Nội thường có những cụ đồ cặm cụi vẽ từng nét
chữ trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành vào những ngày trước Tết. Hình ảnh
ông đồ già trong chiếc áo the, khăn xếp và guốc mộc cũ kỹ từ đó đã in sâu vào
tâm trí và trở thành biểu tượng cho những mùa xuân cổ điển. Vũ Đình Liên đã nắm
bắt hình ảnh nên thơ ấy và viết nên bức tranh thơ sinh động:
Trên
một góc phố, dưới cánh hoa đào đang phơ phất trong gió xuân vẫn còn se lạnh, có
một ông đồ với mái tóc bạc phơ đang bày mực đen và giấy đỏ. Rồi khi khách đến
mua, người xem kinh ngạc nhìn thấy ông thầy đồ đang hoá thân thành một nghệ
nhân đang vung bút. Tiếng trầm trồ thán phục. Trên giấy đỏ hiện lên những con
chữ mà không hẳn là chữ, vì đó là một bức hoạ thần kỳ, đường nét như phượng múa
rồng bay.
Nhưng
ông đồ đang trải lên giấy chữ nghĩa của thánh hiền, hay đang trải lòng mình nỗi
ngậm ngùi của kẻ sĩ đang nhìn thời cuộc đổi thay?
Câu
hỏi ấy nhắc chúng ta nhớ lại thời kỳ đất nước Việt Nam trải qua những cơn biến
động, xã hội đảo lộn, và hệ quả có liên quan đến số phận của ông: sự tàn tạ của
nền nho học. Khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn đã khép, làm tiêu tan giấc mộng
vinh quy của các đệ tử cửa Khổng sân Trình. Biến động ấy dẫn đến sự thất thế của
một lớp người mà có thời chúng ta coi như biểu tượng của văn hoá truyền thống.
Người
người đổ xô đi học tiếng Tây. Ông đồ cũng đành từ giã mái trường, từ giã những
buổi bình văn, để chấp nhận cách mưu sinh buồn tủi là ngồi viết thuê dăm ba câu
đối. Xưa nay ông quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền và việc học không phải
để kiếm sống mà là để làm người quân tử, để phò vua, giữ nước ... thế nhưng
trong thời buổi suy tàn, ông phải đi bán chữ. Chữ nghĩa cao quý ngày nào giờ trở
thành một món hàng đem ra chưng trên vỉa hè đường phố … làm sao lòng ông không
khỏi xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời.
Trong
nỗi xót xa của người buộc phải làm điều bất đắc dĩ, những tấm tắc ngợi khen của
khách qua đường âu cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của kẻ sinh bất phùng thời.
Nhưng
rồi chút an ủi nhỏ nhoi ấy cũng không còn. Ông đồ cảm nhận số khách hàng mỗi
năm mỗi vắng. Không còn ai cần, không còn ai hay là ông vẫn ngồi đấy cô đơn, lạc lõng giữa vệ đường.
Màu sắc cũng phôi pha. Giấy cũng không còn thắm, bẻn lẽn nằm bên đĩa mực đã khô
với những xác lá vàng.
Hình
bóng lẻ loi, cô độc của ông đồ giống như một nỗ lực cuối cùng, đang cô đơn chống
chọi trong vô vọng... cố níu giữ một thời vàng son trên nét bút giữa dòng đời hối
hả. “Lá vàng rơi trên giấy” gợi trong lòng khách yêu thơ một không gian thấm đượm
nỗi buồn, đang quấn lấy số phận hẩm hiu của ông đồ trước khi tàn tạ. Tiếng gõ
nhịp thời gian càng khắc khoải với câu hỏi :“Người thuê viết nay đâu?” Hờ hững
rồi lãng quên. Xung quanh ông chỉ là khoảng trống...
Xuôi
dòng thời gian, mọi thứ lui vào dĩ vãng và để lại cho chúng ta bao nỗi niềm tiếc
nuối. Trong số đó có hình ảnh ông đồ một thời vang bóng. Và bài thơ của Vũ Đình
Liên là một hoài niệm day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp tàn,
man mác nỗi lòng hoài cổ.
Mỗi
độ xuân sang, đọc lại bài thơ, chúng ta không khỏi cảm thấy như trước mắt mình
vẫn còn có bàn tay của ông đồ đang phóng
bút. Cánh tay ông đưa đẩy, cổ tay ông cầm chiếc bút lông uốn lượn, rồi từng nét
chữ còn tươi màu mực dần dần hiện ra mềm mại như “phượng múa rồng bay” trên tờ
giấy hồng điều đỏ thắm. Dường như trong phút xuất thần ấy ông đồ đang bặm môi,
gửi gắm tất cả lý tưởng và khát vọng của mình lên từng nét chữ và nỗi niềm đã
và đang làm con chữ sống dậy. Bài thơ của vũ Đình Liên như muốn níu kéo thời
gian lùi lại, đưa chúng ta trở về không gian cổ, để cùng tưởng nhớ thời vàng
son của những đệ tử “cửa Khổng sân Trình”.
Trương Văn Dân
Sài Gòn 12-2012
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng
bay”.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Vũ Đình Liên
Bản
dịch sang tiếng Pháp của chính tác giả Vũ Đình Liên cùng với Mireille Gansel.
LE VIEUX
LETTRÉ CALLIGRAPHE
Chaque
année s’ouvre la fleur du pêcher
On
retrouve le vieux lettré
encre de
chine, papier pourpre étalés
Sur un
trottoir parmi tant de passants
Nombreux
ils demandent une calligraphie
Puis
prodigues des louanges s’extasient :
« Quel
tour de main pour tracer ainsi des traits
Beaux
comme un vol de dragon, une danse de phénix ! »
Mais
chaque année, on compte les absents
Où
sont-ils ceux qui demandent une calligraphie
Le papier
triste perd son éclat
L’encre
sèche dans l’écritoire mélancolique ….
Le vieux
lettré est toujours assis là
Ils
passent leur chemin – nul ne le voit
Sur le
papier tombe la feuille jaune
Dans
l’air vole la fine brume
Cette
année elle s’ouvre de nouveau la fleur de pêcher
On ne retrouve
plus le vieux lettré
Les
hommes du temps passé
Où s’en
sont-ils allés ?
Bản
dịch sang tiếng Anh của Dr. Chat V. Dang :
THE SINO-VIETNAMESE
TEACHER
Each year, when peach
flowers blossom,
We see again the old
teacher
Display black ink and
crimson paper
On the sidewalk busy
with passers-by.
Many people hire him
to write,
Praising in wonder
his talent:
"His dexterous
hand draws like
Dancing phoenix,
flying dragon."
But each year,
clients become rarer.
Where are you now
calligraphy users?
Untouched red paper
deep in sadness,
Unstirred ink gloomy
inside the jar.
The teacher is still
sitting there,
Pedestrians are
unaware.
A yellow leaf falls
on the paper
As dusty rain flies
in the air.
This year, peach
trees bloom again
Ancient teacher is
not seen.
People from millennia
past
Where are your souls
now?
Bản
dịch sang tiếng Ý của Elena Pucillo Truong
IL VECCHIO
LETTERATO CALLIGRAFO
Ogni anno
sboccia il fior di pesco
Si rivede il
vecchio letterato
Con il suo
inchiostro di china, i fogli di carta rossa stesi
sul
marciapiede tra i tanti passanti
In molti
domandano una calligrafia
Poi prodighi
di elogi si estasiano:
“Che
abilita’ della mano nel tracciare dei tratti
cosi’ belli
come un volo di dragone, una danza di fenice!”
Ma ogni
anno, si contano gli assenti
Dove sono
quelli che chiedono una calligrafia
La carta
triste perde il suo splendore
L’inchiostro
secca nel calamaio melanconico
Il vecchio
letterato e’ sempre seduto li’
Essi vanno
per la loro strada, nessuno si interessa a lui
Sulla carta
cade la foglia ingiallita
Vola
nell’aria una pioggia leggera
Quest’anno
sboccia di nuovo il fior di pesco
Non c’e’
piu’ il vecchio letterato
Gli uomini
del tempo passato
Dove se ne
sono andati?
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Trả lờiXóaQua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Ôi thời gian ... Ngày nay vẫn còn biết bao người cầm bút vẫn đang lặng lẽ với lá vàng rơi trên giấy, ngoài trời mưa bụi bay ... Hồn của họ đang ở nơi đâu !?
Thời @ ai mà còn lưu tâm tới chuyện chữ nghĩa ngày xưa nữa. Phải chịu thôi.
Trả lờiXóaThời nào cũng có cái hồn của nó mà bạn. Vì chữ nghĩa là biểu hiện của ngôn ngữ, tri thức một dân tộc. Mong cho lớp người thời @ đừng để mất đi cái hồn của một thuở !
Xóa