1
Cũng
như mọi lần, việc đầu tiên khi về lại Milano là đi viếng mộ mẹ Elena, nhưng lần
này thì thăm luôn cả mộ của cha nàng. Năm ngoái ông đột ngột mất mà tôi không về
kịp. Như một lời tạ lỗi, tôi đứng nhìn di ảnh ông trong nhà mồ, nhớ lại những lần
trò chuyện và học hỏi ở ông rất nhiều điều về cuộc sống.
Thời
tiết năm nay bất thường. Rất bất thường là khác. Gần cuối tháng 5, mùa hè đã bắt
đầu, thế mà trời u ám và lạnh lẽo như mùa Thu. Tôi xót thương nhìn những người
ngoại quốc run rẩy ngồi xin tiền trước cổng nghĩa trang. Giấc mơ xuất ngoại của
họ đã tan hoang. Cả Âu châu đang ngập ngụa trong cơn khủng hoảng kinh tế chưa từng
có. Nước Ý hiền hoà đang khó khăn, nghĩa trang là nơi dễ làm lòng người chùng
xuống thế nhưng chẳng ai dừng lại. Elena bỏ vào chiếc mũ 2 Euro, người đàn bà bồng
con cảm ơn và chúc phúc cho chúng tôi ...
2
Gác
lại những việc cần làm ở Milano trong chuyến về Ý lần này, chúng tôi thu xếp
hành trang để bay sang Pháp 2 tuần để hội ngộ với anh em văn hữu Quán Văn tại
Paris.
Bỏ
vào hành lý xách tay, ngoài tiểu thuyết “Bàn
tay nhỏ dưới mưa” lần này còn có quyển “Văn học Cổ cận đại
Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật” của GS Nguyễn Huệ Chi mới được công bố.
Quyển sách được biên soạn rất công phu, được nhà phê bình văn học Đặng Tiến gợi
ý và nhờ Thiện mua 10 quyển mang sang giới thiệu tại Paris. Sách bìa cứng, dày
1200 trang và nặng hơn 2 kg, nên anh em chỉ chia được mỗi người mang 1 quyển, tổng
cộng là 5 quyển, còn 5 quyển phải để lại
VN chờ người mang qua lần khác.
Đoàn
ở đây là anh em văn thi sĩ cộng tác với tập san văn học nghệ thuật Quán Văn :
Nguyên Minh - chủ bút, nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh (CTNM), nhà thơ Cao Quảng
Văn và phu nhân là Nguyễn thị Thu. Từ năm ngoái, bác sĩ Thiện đã có nhã ý phối
hợp với Lê Hữu Khóa, giáo sư văn ở đại học Lille 3 mời nhà văn Nguyên Minh (NM)
qua Paris trong chương trình trao đổi văn hoá. Sau bao nhiêu khê về thủ tục, giữa
tháng 6 đoàn đã lên đường sang Pháp.
3
Trời
Milano đã lạnh. Nhưng Paris có lẽ còn lạnh hơn nhiều .
Lò
sưởi lạnh tanh. Mùa này không ai chứa củi. Ngoài sân chỉ có mấy cành cây vụn bị
mưa ẩm ướt. Căn nhà của Thiện có ba tầng, anh Chu Trầm Nguyên Minh nằm tầng dưới,
cửa mở suốt ngày, lạnh lẽo. Chúng tôi phải góp nhặt cây vụn và giấy carton để đốt
nhưng ngọn lửa chưa kịp sưởi, đã tàn. Có hôm lại đốt nhầm một vạt giường của
Thiện!
Một
hôm đi dạo, anh Chu Trầm Nguyên Minh và Elena thấy một đống gỗ người ta bỏ
ngoài đường nên mang về nhà. Ngọn lửa trong lò sưởi bùng lên. Không khí ấm cúng
và sôi động hẳn. Nguyên Minh thường pha trà rồi mấy anh em tụ tập bên ngọn lửa,
tán gẫu. Trên ống khói lò sưởi có tranh chân dung Trịnh Công Sơn, do hoạ sĩ
Công Thế Cường vẽ.
CTNM
ở tầng dưới, giường anh nằm đối diện lò sưởi nên đêm nào anh nói cũng “mơ thấy
TCS”... Tôi và Elena ở tầng áp mái, nhưng thường xuống trò chuyện cùng anh. NM
thì không chịu được lạnh, thấy lửa đốt trong lò là mò xuống, hai tay ấp ly trà
nóng, khuôn mặt lúc nào cũng trầm tư.
Đây
có lẽ là lần đầu tiên hai ông bạn già có thể ở gần nhau một thời gian dài sau
bao năm mới gặp lại. Số là sau những thăng trầm, hơn ba mươi năm CTNM và NM lạc
mất nhau. Thỉnh thoảng hỏi, nhưng không ai biết. Tưởng chết. Vượt biên. Định cư
nước ngoài. Họ hoàn toàn mất tin nhau và cả hai âm thầm, buông bút, sống trong
lặng lẽ.
Thế
nhưng NM đã cầm bút. Và hơn thế, ở tuổi 70 anh còn dũng cảm tụ họp anh em để
cho ra mắt tập san vhnt Quán Văn.
Họ
gặp nhau như một tình cờ. Trong một buổi triển lãm tranh, CTNM có hỏi thăm tin
tức về NM, may là có người biết và cho số điện thoại. Gọi. Nghe giọng nhau, nghẹn
ngào trong xúc cảm. Trò chuyện huyên thiên, xen lẫn những khoảng lặng của nước
mắt vui mừng. “Ông nên mua vài quyển Quán Văn để xem đi” “Trời đang mưa tầm tã, chưa đi được”.“Vậy mà nói
yêu văn!”
Khoảng
30 phút sau: “ NM, Tôi đội mưa, ướt như chuột và đang đứng trước nhà sách Hà Nội,
cầm trên tay 5 số Quán Văn nè” “Tốt lắm. Chứng tỏ tình yêu văn chương vẫn còn nồng”.
Chuyện
ông ... già hơn 70, ngày mưa như trút nước, vượt quãng đường ngập lụt từ Đầm
Sen lên Sài Gòn mua sách được NM kể lại như một huyền thoại.
Sau
đó họ gặp nhau. Trong lần ra mắt QV số 6 ở nhà Bs Trương Thìn tôi gặp anh lần đầu
mà như đã biết nhau. Sau đó, anh đã cầm lấy bút và xuất hiện thường xuyên trên
QV và các trang web.
Hôm
gặp mặt ở toà soạn QV, chị Vân, vợ anh CTNM nói cảm ơn NM rất nhiều. “Từ ngày có QV, ảnh như một người khác. Trước,
lúc nào cũng thui thủi, ra vô thở dài, trầm ngâm. Nhưng bây giờ thì vui vẻ, hồn
nhiên. Viết lách đã làm anh bớt ưu tư và gần như quên hẳn những chuyện buồn phiền”
Trong
suốt thời gian, hai ông bạn già hàn huyên đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, như
thể đang "Tìm
lại thời gian đã mất". Thời gian họ quen và thân nhau,“chơi” với nhau hơn nửa thế kỉ. Cho đến hôm nay, dù những thăng trầm thế
cuộc, có lúc treo bút, câm lặng nhưng chưa bao giờ phai nhạt tình yêu văn
chương, chưa sống một ngày không thật với lòng mình. Khi viết, họ không đố kỵ
mà nâng đỡ nhau, thành công của người này có sự đóng góp của người kia.
Có lẽ đó là những tình tiết khó tin
với lớp trẻ, các bạn văn trong văn giới và báo giới hiện thời.
Nhìn hai ông anh già trò chuyện, có
lúc họ cười hồn nhiên như các thanh niên 18-20, tôi càng sâu sắc hiểu là văn
chương làm cho con người trẻ lại. Đem ý này, kể lại, thì bắt gặp sự đồng cảm
của Hoàng Kim Oanh đang ở Sài Gòn : “Kì diệu thay là văn chương. Nó gắn kết
nhiều con người với nhau không phân biệt tuổi tác, địa vị, không gian ... Nó
làm tâm hồn con người lúc nào cũng trẻ trung rạo rực yêu mê như tuổi 20 ... Nó
làm nỗi buồn thấm sâu nhưng cũng lan toả sẻ chia trong những cảm xúc thăng hoa
bất tận ... Nó giúp ta nâng tâm hồn mình hướng về những gì cao thượng đẹp đẽ, đầy
nhân ái bởi biết trân trọng và xót thương..” Sau đó
chị còn trích dẫn câu nói của Edgar
Allan Poe (1) : “Văn chương là nghề cao quý nhất. Thật vậy, có lẽ nó là cái duy nhất
phù hợp với một con người. Đối với bản thân tôi, không gì có thể quyến rũ tôi
tách khỏi con đường ấy.”
Trong cái buốt giá của Paris,
Email của chị gửi đến như một tách trà nóng gửi từ quê hương xa tắp, làm ấm
lòng bè bạn ở xa.
3
Trời
vẫn không có dấu hiệu sẽ đẹp hơn. Mỗi sáng thức giấc, tôi nhìn lên hai cửa kính
trổ ra trên mái, như thể đó là hai kính thiên văn. Xám xịt. Ăn sáng xong chúng
tôi thường đứng ở mái hiên nhìn trời và đoán già đoán non về thời tiết. Thiện lấy
tay chỉ lên trời : “ Biển phía này. Mây đang bay từ biển, chắc sẽ còn mang theo mưa nữa.”
Thật vậy. Gió. Mưa. Lạnh. Đêm có khi nhiệt độ xuống 2-4°C như mùa Đông. Dĩ
nhiên những chuyến ra khỏi nhà rất hạn chế vì phần lớn anh em chỉ mang theo quần
áo mùa hè và một ít áo khoác nhẹ bên ngoài.
Tuy
vậy, điều an ủi là : Vui. Bởi
lần đầu anh em có được cơ hội sống chung, từ sáng đến tối, tha hồ tán chuyện
văn chương.
Trời
tuy lạnh nhưng sáng nào anh CTNM cũng dậy sớm để đi mua bánh mì về cho anh em
ăn sáng. Bác sĩ bảo anh cần vận động. Đi riết anh quen mặt bà chủ cửa hàng. Tiếng
Pháp chỉ nói được vài câu, nhưng mái tóc vàng óng, khuôn mặt đẹp và cặp mắt
xanh như dòng sông ... Seine đã làm họ trở thành bạn trong giây lát. “Nét đẹp tây phương cũng dễ hút hồn người lắm”.
Với tâm hồn lãng mạn của nhà thơ, chắc cũng có lúc anh “tiếc” là không còn ở tuổi mười tám, đôi mươi.
Một
hôm trời đẹp, mấy người thuyết phục NM tròng áo ấm bước ra khỏi nhà. Mới đầu đi
bộ ở Khải Hoàn Môn, còn sung sức nên hai
“cụ” nói cười rôm rả, có lúc khẽ nhìn phần
“tròn ũm” của các cô nàng mặc quần bó sát. Thế nhưng trên đường về, phải tìm bến
xe bus nên phải đi bộ một quãng đường dài, băng qua hết khu vườn Teulerie. Đi bở
hơi tai. NM chân ngắn nên ... bị “ê càng”, lầm bầm suốt đọan đường. Thế nhưng tối
đó về ngủ thật ngon. Ngáy. Tuy nhỏ người mà tiếng ngáy vang từ tầng một bay lên
tầng áp mái. Hạ xuống tầng trệt, như một buổi hoà nhạc. Đủ các cung bậc bỗng,
trầm.
4
Tôi
chỉ biết nhà văn Từ Vũ là người quản lý trang mạng văn chương Newviertart ở
Pháp mà thỉnh thoảng có gửi vài truyện ngắn chứ chưa gặp bao giờ. Chỉ trước khi
về Âu Châu chúng tôi có hẹn gặp tại Paris. Và thật đúng hẹn, vợ chồng anh Từ Vũ
đã đến nhà bác sĩ Thiện để gặp anh em trong nhóm Quán Văn.
Thật
lạ lùng! Mới ngồi với nhau chỉ vài phút mà mọi e dè, cảm giác ngại ngần đã bị
giũ bỏ. Tánh tình bộc trực, giọng cười rổn rảng … Từ Vũ ăn nói tự nhiên nên
chúng tôi đã xem nhau như những bạn quen thân tự thuở nào. Chị Dị vợ anh cũng
thế, không khí rất thân tình cởi mở.
Bàn
về văn chương, Từ Vũ say sưa nói rõ quan điểm của mình : “Các bài viết phải nằm trong dòng văn học thuần túy Việt Nam,
không bắt chước, học đòi, cóp nhặt những loại văn chương lai căng nhân danh hai
chữ "đổi mới" ; không tục tằn khiếm nhã bẩn
thỉu, hằn học, mạ lỵ, chửi bới ; không cố tình thủ lợi xách động,
xúi giục, ... tạo hận thù, gây chia rẽ suy yếu Việt Tộc và bài viết phải là một
sáng tác trong đó người viết muốn truyền thông đến người đọc trong tính cách Xây Dựng về Nhân Bản, Tình Yêu Quê Hương, Tình Người
... hoặc một Thực Trạng Xã Hội ... mà tác giả là chứng nhân ”. Anh cho rằng nhà văn còn phải có nhân cách.
Nếu không lấy Chân, Thiện, Mỹ làm chủ đạo thì hãy nên làm nghề khác và đừng nên
cầm bút. Tính
chất của nghệ sĩ là không có hận thù.
Trong
câu chuyện anh có nhắc đến vài cây bút có tiếng tăm, nhưng kẻ bỏ bê gia đình,
người quan hệ bất chính với vợ bạn … nên bài viết của họ không được đăng trên
trang web của anh!
5
Mấy
ngày sau chúng tôi gặp nhà văn Kiệt Tấn. Thời còn ở Ý tôi đã đọc anh khá nhiều
trên nguyệt san Văn Học ở Cali và trên các trang web nhưng chưa gặp lần nào. Khổ
người to con, mặt vuông, dáng lừ đừ nhưng theo nhiều người thì
... mặt mày sáng rỡ khi thấy đàn bà. Anh có giọng nói lè nhè, cà tửng bông lơn theo kiểu người
say Nam bộ.
Tuy
gặp lần đầu nhưng nhà văn “đình đám” này rất hồn nhiên, cởi mở, xem tất cả như những bạn văn đã quen thân.
Câu
chuyện xoay quanh về sự suy thoái văn hoá và sự tàn ác của loài người. Tôi và
Kiệt Tấn cùng gặp nhau trên quan điểm : Con
người càng văn minh càng tàn ác. Anh đồng tình ngay và cho rằng con người đang sống
chống lại thiên nhiên. Ngay cả cái chết cũng không muốn thân xác rã rời. Xây
lăng mộ. Kim đĩnh. Xây tháp để giữ xác ...
Khi
tôi kể lại chuyện con gấu bị chặt chân và nhốt trong cũi sắt trong một quán ăn ở
ngả ba Bạch Hạc (Việt Trì) thì tất cả đều
rợn người : một con gấu chỉ còn ba chân bị nhốt trong cũi sắt và di chuyển rất
khó khăn. Không chỉ bị chặt chân, định kỳ người ta còn đâm kim vào người nó để
lấy mật. Đôi mắt gấu đỏ hoe, nó gầm gừ nhìn các thực khách với tia nhìn căm hận.
Tôi hình dung ra một ngày nào được sổ chuồng, chắc nó sẽ xé xác những kẻ đã
hành hạ và tra tấn nó... (2)
Từ
chuyện dã man, chúng tôi chuyển qua nói về chiến tranh. Kiệt Tấn kể lại chi tiết
có thật : một người bạn là sĩ quan pháo binh. Một hôm bắn nhầm, đến nơi thấy
nhiều người chết nên liền làm đơn và vận động xin đổi binh chủng. Câu chuyện
chưa dứt, tất cả chúng tôi đều ngỡ ngàng khi thấy anh ôm mặt. Im lặng. Rồi bật
khóc!
Tưởng
chỉ là một phút giây xúc động, ứa nước mắt. Nhưng không! Anh khóc thật. Mới đầu
ư ử rồi bật lên thành tiếng. Khóc ngon lành như cảnh máu me đầu rơi máu chảy,
thịt xương tách lìa đang nằm trước mắt.
Chúng
tôi ngơ ngác, đưa mắt nhìn nhau. Chị Ánh, vợ anh, phả phả tay trấn an :
-
Không sao, cứ để cho anh ấy khóc một hồi
cho đã đi ! Chắc đang thèm khóc!
Không
khí căn phòng yên lặng. Chỉ có tiếng nấc ồ ồ của Kiệt Tấn.
Mãi
một lát chị Ánh mới vỗ vỗ lên vai rồi vuốt
vuốt lên lưng chồng :
-
Thôi, đủ rồi! Nín đi anh!
Tiếng
thút thít dường như đang thưa dần. Khuôn mặt KT lúc này có dáng dấp của một đứa
bé được mẹ vỗ về.
NM chợt đưa mắt nhìn tôi như ngầm bảo : KT có
lúc xúc cảm như vậy đó, rồi anh rót một ly Bordeau đưa cho KT.
-
Nè anh bạn, khóc được là sướng lắm. Uống
cạn ly rượu này là sẽ quên hết!
KT
chẳng nói gì nhưng ngửa cổ uống một hơi rồi nín khóc. Anh vui vẻ nói chuyện
bình thường trở lại.
Chứng
kiến cảnh đó, tôi bỗng nhớ lại là trước đây có đọc một bài phỏng vấn KT. Đại
khái, có người rụt rè hỏi:
-
Anh KT à, tôi nghe có người nói anh
điên? Có thật vậy không anh?
KT
trợn mắt trả lời:
-
Điên thiệt quá đi chứ cha! Tui điên có
“bằng cấp” mà!
Tự
nhiên tôi bật cười. Người điên mà biết mình đang điên thì chắc là rất tỉnh hay
đơn giản đang toan tính một điều gì. Chắc những cơn điên ấy đã làm bật lên ý thức
phản kháng về sự tàn ác của xã hội đang bị dồn nén đến cùng cực, chỉ chờ cơ hội
là bùng nổ thành những con chữ tố cáo sự giả dối của xã hội phi nhân tính: đặt kinh tế lên trước con người. Thế giới
đang hành xử với nhau thật thô bạo thế mà cứ nhơn nhơn nói về quyền con người ...
Lúc
ngẩn người nhìn anh khóc tôi cũng hiểu KT là người vô cùng nhạy cảm. Có lẽ
chính sự bén nhạy ấy làm anh đau đớn hơn những người bình thường và bất cứ thứ tội ác nhỏ nhoi nào cũng làm trái tim anh
lay động.
Chuyện
về KT còn nhiều. Bây giờ xin tạm khép lại và sẽ có một bài viết khác về ông
trong số QV tới.
Lúc
chia tay KT tặng tôi Tập truyện ngắn & Tiểu luận “Người em xóm học” và Tiểu thuyết “Lớp lớp phù sa ” Tôi cũng ký tặng anh quyển
tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” của mình, sách dày hơn 400 trang, nhưng không chắc là anh có đủ “can đảm” để đọc
hết hay không?
6
Sau
hai tuần lễ âm u, ngày nào mấy anh em cũng nhìn trời. Còn mấy bữa nữa là đến
ngày họp mặt mà cái lạnh vẫn chưa thấy giảm, mưa tuy không nhiều nhưng cứ lắc rắc,
làm sao có thể tổ chức ăn uống ngoài trời? Dĩ nhiên có thể họp bên trong nhà
nhưng như thế thì còn gì thú vị?
Chúng
tôi bắt đầu đếm ngược : Còn 2 ngày! Còn 1 ngày! Và buổi sáng ngày 2/6 trời đột
nhiên bừng sáng. Nắng không chói chang nhưng cũng vừa đủ ấm để có thế kê một
băng dài ngoài trời, rộng rãi, thoáng mát, để vừa ăn uống, trò chuyện và thơ thẩn
dạo trong khu vườn nhà Thiện.
Trong
khi các bà khẩn trương nấu nướng, anh em chúng tôi kê hai bàn dài trong phòng
khách để sắp xếp mười mấy bộ Quán Văn từ số 1 đến số 14, và các tập thơ, truyện
của mình để dành tặng bạn bè. Đây là công khó nhọc của NM và Cao Quảng Văn,
đóng thùng mang hơn 70 kg sách qua đất Pháp.
Thấy
CTNM xoa xoa vai, tôi hỏi anh bị đau vai hả? Anh cười, nói hôm đóng thùng sách
và chuẩn bị hành lý xong rồi, anh mới nhớ là còn quên quyển sách nặng hơn 2 kg
của Gs Nguyễn Huệ Chi nên phải bỏ vào ba lô cùng với laptop để mang lên vai.
Trong lúc bóp vai giúp anh, tôi bỗng bật ra mấy ý :
Anh “cõng” văn chương về xứ
lạ,
Một đời nặng trĩu những đam
mê.
“Lời tình buồn” bã như thân
phận (3)
Tiếng cười chưa lấp nổi tái
tê...
7
Khoảng
9 giờ thì các văn nghệ sĩ và các bạn lục tục kéo đến. Có những người đã quen
lâu nhưng cũng có người mới gặp mặt lần đầu. Đến tham dự có vợ chồng nhà phê
bình văn học Đăng Tiến và chị Nguyệt, vc nhà văn Kiệt Tấn và chị Ánh, vc hoạ sĩ Lê Tài Điển, hoạ sĩ Nguyễn Cầm, hoạ sĩ
Công Thế Cường mà hơn 40 năm tôi mới gặp lại và một số bạn hữu ở Ý như Danh
cũng bay qua cùng các bạn ở Paris và vùng lân cận như Dr Khải, kts Hưng, Ks
Hùng ...
Nhà
văn Chinh Ba, tác giả truyện ngắn nổi tiếng “Bài thơ trên xương cụt” từ
Monpellier xa xôi cũng đã thu xếp đến dự.
Buổi
họp mặt hôm ấy, kể cả anh em Quán Văn thì cũng đến 25 người.
Rất
tiếc là có những việc đột xuất nên còn thiếu dịch giả Trần Thiện Đạo, nhà văn Cổ
Ngư, gs Lê Hữu Khóa. Vợ chồng Nhà văn Từ Vũ /Nguyễn thị Dị không đến được nhưng
hứa sẽ đến thăm anh em Quán văn trước khi rời Paris.
Trong
lúc đón khách, khi trông thấy tôi Kiệt Tấn vồn vã :
-
Em có đọc quyển ...của anh chưa? Tôi lắc
đầu. Thế là anh cười to rồi nói ngay: “Vậy là tư tưởng lớn gặp nhau rồi. Đụng nhau
chan chát.” Tiếc quá, lúc đó đông người, giọng anh lại ồ ề nên tôi không
nghe rõ tên cuốn sách. Anh cho biết là đã đọc “một lèo” hết quyển “Bàn tay nhỏ
dưới mưa” nên mới nhận xét là “mình còn
nhiều đồng cảm lắm”.
Bận
bịu với việc đón tiếp bạn bè nhưng lúc ngồi vào bàn tôi cứ thầm hỏi là với một
tác phẩm chạm đến nhiều vấn đề như BTNDM thì không hiểu anh “đồng cảm” về cái gì?
Về tình yêu ngút ngàn, tình dục mê say, hòa trộn thân tâm? Về thực phẩm biến đổi
gen, về ô nhiễm môi trường và hậu quả bệnh tật và cái nhìn về cái chết ? Về những
trang viết xem chiến tranh là sự phá sản của loài người? Hay đồng cảm trên quan
điểm là khi con người làm điều ác mà lương tâm yên ổn vì đã được biện minh thì
hậu quả sẽ vô cùng khủng khiếp? Chạm nhau về điều này vì thế giới đang bị ung
thư như cô Gấm?...
Tiếc
rằng sau đó buổi họp đông người quá, chúng tôi không có thời gian trao đổi.
Ăn
trưa và tán gẫu xong, chúng tôi vào trong nhà, quây quần bên bàn sách. Mở đầu tổng
biên tập NM nói chủ trương của tập san QV là xây dựng tinh thần nhân ái, là viết
về tình yêu thương để gắn kết cộng đồng, dùng ngòi bút để làm đẹp tâm hồn, và
làm đẹp thế giới. Với ý thức đó thì văn chương không chỉ là nguồn tri thức mà
còn là nguồn năng lượng tinh thần, có ý nghĩa cổ vũ tiếp sức cho con người
trong cuộc sống.
Nhà
phê bình văn học Đặng Tiến cũng đồng tình với quan điểm này. Anh nói trong tình
hình hiện nay làm một tờ báo văn học thật không dễ. Muốn tồn tại lâu dài thì cần
phải có những bài viết chất lượng, xây dựng tình người và mời bạn bè tham gia,
hổ trợ.
Nhiều
ý kiến đóng góp rất hữu ích được đưa ra. Nói chung với những người yêu văn
chương thì tất cả những đóng góp đều trên tinh thần xây dựng.
Trong
buổi họp mặt còn có một chi tiết cảm động của họa sĩ Lê Triều Điển : Năm mươi
năm trước đã đọc nhiều truyện ngắn của nhà văn Chinh Ba, và những trang viết ấy
từ lâu đã trở thành kim chỉ nam cho cách sống và cách nghĩ của người trai thời
loạn. Anh bất ngờ khi gặp nhà văn này bằng xương bằng thịt ở đây. Cảnh hai người
ôm nhau làm anh em thật sự xúc động. Tôi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài
trên khuôn mặt hai người
Tôi
chỉ xin trích thêm ở đây bài viết của Lê Hữu Khóa, người có công mời anh em QV
qua Paris, nhưng lần này vắng mặt. Anh nhận định về nhân tính trong bài viết
nói với các con của hoạ sĩ Lê tài Điển: “...Chung
quanh ba có nhiều nghệ sĩ rất tài hoa nhưng họ ít có nhân tính, chuyện nhân
tính thật hiếm trong cuộc sống, làm người hằng ngày và cả đời nhưng chưa chắc
đã có nhân tính, chữ nhân trong Khổng giáo là như vậy, nhân là nhân tính; Rousseau cũng nói rõ chuyện
này : «Les hommes soyez humains !» Con người ơi hãy giữ nhân tính. Có
thể trở thành hoạ sĩ thành đạt với tài năng hoặc kỹ xảo, nhưng không thành hoạ
sĩ lớn được nếu không có nhân tính ; lòng vị tha có trong tư duy của nghệ
sĩ, lòng trắc ẩn có trong sáng tác của nghệ sĩ” “... những loại người đang sống
giữa đời nhưng không hết lòng với cuộc đời. Nửa vời, sống như không sống.”
“ Kant dặn nghệ sĩ «L’esthétique est
inséparable de l’éthique», mỹ thuật không
rời đạo lý, cái đẹp không bỏ cái nhân.”
Rồi
anh đặt câu hỏi? Trong thế kỷ mới này cũng vậy, càng ngày người ta càng ít nói
đạo làm người, ít bàn tới đạo lý người nghệ sĩ, nhân tính trong sáng tạo, chú
cũng không hiểu tại sao ?
Trong
một tinh thần toàn cục như vậy nên tôi xin được gọi buổi họp mặt Quán Văn tại
ngôi nhà Rue Marcel
Douret 10-Villemomble của bác sĩ Thiện là “Cuộc hội ngộ của những trái tim”
Hàng trước : Hs Nguyễn Cẩm, Hs Lê Tài Điển, Nguyên Minh, Cao Quảng Văn, Nguyễn Thị Thu
Hàng sau : Bs Nguyễn Chí Thiện, Đặng Tiến, Elena Truong, Trương Văn Dân, Kiệt Tấn, Chinh Ba, Chu Trầm Nguyên Minh
8
Trước
ngày chúng tôi về lại Ý thì hai vợ chồng
nhà văn Từ Vũ / Nguyễn thị Dị đến thăm và từ giã. Anh mang theo mấy chai rượu để
tặng anh em làm quà.
Vui
nhộn như mọi lần, Từ Vũ rổn rảng nói cười.
Định nói vài hàng về anh, nhưng đọc mấy câu thơ của CTNM viết về Từ Vũ thì biết là mình khó thể nói gì thêm :
“Cái
miệng nói nhi nhô
“phơi
lòng cùng tri kỷ”
thẳng
tuột như ngựa hí
phi
đường dài không nghỉ”
“Trong
cõi đời mù mịt
cớ
chi ta gặp người
thân
thương như đã kết
một
thủa nào xa xôi ”
(Từ
Vũ, CTNM)
Đúng
là mới gặp mà “ thân thương như đã “kết”!
Ngồi
nói chuyện một lát thì Thiện cầm guitar ra hát. Từ Vũ cũng phụ họa theo. Nếu ai
đã từng quen biết Thiện, lúc này cũng khó nhận ra anh : Với cây đàn trong tay,
anh không còn là một bác sĩ đạo mạo trong chiếc blouse trắng mà đột ngột hóa
thân thành một nghệ sĩ đang thả hồn bay theo cung bậc bỗng trầm! Biết bạn từ 40 năm, nhưng đây là lần đầu tôi
mới hiểu vì sao anh mến mộ và thích giao lưu với văn nghệ sĩ.
Hai
người hát thật sung sức và có khi còn lắc lư, nhún nhảy. Tôi vào kho lấy mấy
chiếc mũ dứa rộng vành đặt lên đầu họ, không khí bỗng vui nhộn. Tiếng cười vang lên rộn rã và lúc này có một điều kỳ lạ đã ra : một
người thâm trầm, nghiêm túc như nhà thơ CTNM ... cũng bị cuốn theo dòng xoáy của
âm thanh, rời bàn, lên sân khấu ... lắc lư, ca hát. Khi tôi chụp lên đầu anh
chiếc mũ dứa rộng vành thì trên sân khấu như có một dàn tam ca (trio) của nhóm Inti- Illimani đang hát bài Venceremos
trong thập niên 70 của thế kỷ trước.
Chu Trầm Nguyên Minh - Từ Vũ - Bs Nguyễn Chí Thiện |
Trên sân khấu thì vui nhưng khán giả bên dưới
thì ngậm ngùi vì sắp chia tay. Chị Dị ngồi cạnh Elena, trò chuyện nửa bằng tiếng
Việt nửa bằng tiếng Pháp mà nước mắt lưng tròng. Lát sau anh CTNM bước xuống ...
thì nỗi buồn ly biệt với những giọt lệ của chị cũng tuôn chảy nữa. Chắc có người
sẽ không hiểu là tại sao chỉ mới gặp vài lần mà chúng tôi lại quyến luyến nhau
đến vậy? Xin thưa : Tác phẩm! Nếu “văn là người” thì chúng tôi đã biết nhau tự
thuở nào, và sau hai tuần trao đổi và đọc được “lòng” nhau, lòng quý mến thân
thương dễ phát sinh từ những tâm hồn đồng cảm. Có lẽ đây là một minh chứng đầy
thuyết phục về những gì mà mấy tháng trước tôi đã viết về nhà văn Huỳnh Kim Bửu
trong “Thầy giáo, Bạn văn”(4) : “ Nếu sự đồng cảm văn chương là sự chia sẻ về
tính cách và tâm hồn thì tôi nghĩ nó gắn kết con người còn hơn máu thịt. Vì anh
em trong gia đình tuy cùng cha mẹ sinh ra nhưng chưa chắc về nhân sinh quan và
những chiêm nghiệm, suy tư về cuộc sống,… đã có cảm thông thật sự.”
Trong
cuộc hội ngộ ở Paris lần này tôi chứng kiến hai lần khóc: Nếu tiếng khóc của nhà văn Kiệt Tấn là sự phản kháng lòng tham ác thì
tiếng khóc của nhà văn Nguyển thị Dị là sự chân tình.
9
Ngày
vui nào rồi cũng qua mau. Sáng hôm sau tôi và Elena phải về lại Ý để giải quyết những tồn tại trong chuyến về
Âu Châu lần này. Thời tiết Milano lúc này đang ở thì
đẹp nhất.
Milano. Nơi tôi
đã sống và làm việc rất nhiều năm nhưng không phải bao
giờ cũng có dịp để nhận ra vẻ đẹp của những tháp chuông nhà thờ hay lòng lâng
lâng thả hồn theo lời cầu kinh buổi sớm ... giờ đây không hiểu sao bất kỳ mùi vị
hay âm thanh nào cũng có thể chạm vào nơi sâu thẳm. Bốn mươi năm. Thời gian có
lẽ cũng đủ để làm nhạt nhòa những nỗi đau, hàn gắn những vết thương, xóa mờ đi
bao nỗi thăng trầm của một thời trai trẻ.
Một
thước phim lướt nhanh qua tâm trí : Tôi rời quê nhà lúc 18 tuổi, khi trái tim mẫn
cảm vừa khe khẽ chạm vào cuộc sống còn đượm màu thiên nhiên nên trong lòng
luôn mang theo nỗi nhớ và lòng quyến luyến
với quê hương. Tôi nhận ra một điều, là
dù sống ở bất cứ nơi nào không phải quê
hương ... với thời gian bao nhiêu năm đi nữa thì tiềm thức vẫn luôn in đậm
nét của kỹ niệm, có buồn có vui nhưng lúc nào cũng đẹp, và quyết định quay về vẫn
là một lực đẩy tiềm ẩn trong tâm hồn.
Thế
rồi tôi chợt nhớ đến tiếng
khóc và một câu viết của nhà văn Kiệt Tấn : “Trời
ơi sao tôi cần quê hương đến như vậy!” Vâng, những trang viết của anh
đầy ắp tình quê hương. Thương đứt từng khúc ruột : Thế nhưng anh phải sống cả đời
xa mảnh đất của mình. Đi trước tôi nhiều năm mà đến giờ vẫn còn phải ở nước ngoài
Có
lẽ về điểm này thì tôi may mắn hơn anh. Sau 40 năm cuống rún xa lìa tổ quốc,
tôi đã được quay về. Dù chuyến về không dễ dàng và cũng có nhiều hệ lụy ...
Thế
nhưng khi khép cánh cửa căn nhà ở Cassina
de Pecchi, ý thức rằng mình sẽ không còn quay lại căn nhà này nữa, bàn tay của
tôi hơi sững lại, cảm giác như khi chia tay một người thân mà biết rồi sẽ không
gặp nhau.
Một giọt nước mắt bỗng lăn dài xuống
má.
Viết
tại nhà bác sĩ Thiện :
Rue
Marcel Douret 10-Villemomble.
Paris, 6-2013
Trương Văn Dân
Quán Văn số 16
(1)
Trích thư của Edgar Allan Poe gửi Frederick W. Thomas
(ngày 14 tháng 2 năm 1849) : “Literature is the most noble of profession. In
fact, it is about the only one fit for a man. For my own part, there is no
seducing me from the path.”
(2) http://laodong.com.vn/xa-hoi/chau-be-bi-gau-can-dut-hai-tay-da-xuat-vien/139181.bld
(3) “Lời
tình buồn” là
bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Vũ
Thành An phổ từ bài
thơ cùng tên của Chu trầm Nguyên Minh.
(4) http://xunau.org/2013/02/15/thay-giao-ban-van/
Con người sống bằng cơ tâm nên con người càng văn minh càng tàn ác. Trang Tử ngàn xưa có một câu chuyện có lẽ vẫn còn sống mãi đến ngàn sau :
Trả lờiXóaCƠ TÂM
Thầy Tử Cống đi qua đất Hán Âm, thấy một ông lão làm vườn đang xuống giếng gánh từng thùng nước đem lên tưới rau.
Thầy Tử Cống nói:
Kia có cái máy, mỗi ngày tưới được hàng trăm khu đất, sức dùng ít mà công hiệu nhiều. Cái máy ấy đằng sau nặng, đằng trước nhẹ, đem nước lên rất dễ và tên gọi là "máy lấy nước".
Ông lão làm vườn nói:
Máy tức là cơ giới, kẻ có cơ giới tất có cơ sự, kẻ có cơ sự tất có cơ tâm. Ta đây có phải không biết cái máy ấy đâu, chỉ nghĩ xấu hổ mà không muốn dùng vậy.
(Cổ Học Tinh Hoa - Nguyễn Văn Ngọc & Trần Lê Nhân)