Hà Giao - Ảnh của baobinhdinh.com |
Mỗi người cầm bút có một xác định riêng về cái đích tới, về lý do và những mưu cầu. Có những ồn ào tôn vinh, có rơi vèo vào vô tăm tích. Nhưng những phản hồi kịp thời luôn là niềm vui, sự hưng phấn cho người cầm bút. Ở khía cạnh này, có thể nói cuộc lặng lẽ đến với vẻ đẹp kỳ vĩ những sử thi Bahnar của nhà folklore Hà Giao có gì như một chấp nhận, một lựa chọn, một thôi thúc riêng…
* Từ ân tình thời đất nước gian lao...
Hà Giao sinh năm 1937 ở Vĩnh Hòa, Vĩnh Thạnh. Sẽ chẳng có chút âm vang gì nếu chỉ là nơi sinh, như mọi vùng miền sinh ra của ai ghi trong lý lịch. Nhưng Vĩnh Hòa của ông khác. Đó là nơi ông từng đóng quân thời bộ đội làm rẫy 5 năm. Nơi năm 1993, ông tìm về và chứng kiến bok Đoan diễn cho bà con nghe 30 sử thi, những bản hơamon hấp dẫn và quyến rũ, những bản anh hùng ca viết về những dũng sĩ huyền thoại chiến đấu bảo vệ buôn làng, bảo vệ điều thiện, tiêu diệt cái xấu, cái ác. Không thiếu bên cạnh những chiến công này là nét trữ tình đằm sâu, rất riêng của núi rừng nam Trường Sơn.
* Từ cái rựa, cái cuốc, cây súng đến cây bút… Ông có thể nói về duyên nghiệp cầm bút của mình?
- Năm 1965 tôi đi bộ đội thì 5 năm sau được chuyển sang làm báo Quân giải phóng của Khu 5, chủ yếu viết về các anh hùng như Nguyễn Công Tòng, Võ Lai, Lê Văn Cao, Nguyễn Hữu Quang… Năm 1968 có thể coi là bước ngoặt về chặng đường chữ nghĩa của tôi khi truyện ngắn “Cái rựa” được in và được trao giải thưởng Văn học nghệ thuật miền Trung Trung bộ. Cuối năm 1971 tôi bị thương, được chuyển ra Bắc điều trị, năm 1974 về làm biên tập viên Phòng văn nghệ Đài Giải phóng, năm 1975 về làm ở Báo Nghĩa Bình rồi về Sở Văn hóa tham gia Phòng Văn nghệ, tiền thân của Hội Văn nghệ tỉnh sau này. Năm 1999, tôi nghỉ hưu từ cơ quan Hội Nhà báo tỉnh. Nhìn lại quãng đời cầm bút của mình, tôi rất vui vì đã có những đóng góp cụ thể là hơn chục đầu sách các mảng sáng tác, sưu tầm, biên dịch văn học dân gian miền núi. Đó là những đầu sách gắn bó sâu thẳm với núi rừng, buôn làng như một món nợ ân tình.
Chiến tranh và những gian nan, khốc liệt, máu xương rồi cũng qua đi, cả một phần thân thể ông gửi lại chiến trường cũng đã lùi xa, nhưng buôn làng và những con người khổ nghèo chung thủy, hào hiệp luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi mời gọi như quê hương trong lòng người xa xứ. Hãy thử đọc vài giãi bày bằng thơ của ông: “Có thể bạn chưa tin đây là chuyện thật/ ta ngủ nhờ xích lô/ kẻ mỏi mòn đợi khách/ và ngủ đến quá nửa đời/ giật mình tự đánh thức/băng lên đỉnh đồi xa/ dõi đàn ong bay đi tìm hoa/ lại tìm hoa văn trên cửa nhà rông/ tìm hoa văn trên ngực áo no tròn” (Phác thảo), hoặc: “Nhập nhòa bếp lửa nhà sàn/ bóng già lặng lẽ hơ bàn tay chai/ lưng còng đầu gối chạm tai/ mắt lim dim ngó tháng ngày long đong” (Bếp lửa nhà sàn)… Và những chuyến đi cứ nối tiếp nhau. Nối tiếp nhau qua suối lũ gió ngàn với bập bùng ngọn lửa chinh chiên, cần rượu vít cong lời hơamon miên man. Miên man trang nối trang phồm phàm và sống động những miền trữ tình và bi tráng, hoang sơ và ước vọng, nối tiếp nhau được lưu giữ bằng văn bản, tiếng phổ thông và cả tiếng người vùng cao. Công việc của ông là mối giao hòa tự nhiên giữa ân tình và số phận.
* Đến sự cuốn hút của những vẻ đẹp
* Sưu tầm và biên dịch văn học dân gian miền núi, môït công việc hoàn toàn không dễ dàng nếu không xuất phát từ một đam mê và cả lòng yêu thương, trân trọng văn hóa của đồng bào, bản thân ông đã đến với mảng văn học này như thế nào?
- Từ ăn cơm lúa rẫy, nghe hát dân ca, kể chuyện cổ tích mấy mươi năm trước, một lần về thăm quê, tôi sửng sốt khi nghe bok Đoan nằm tòn teng trên võng khan hơamon. Tôi không ngờ “vùng rừng núi này có những bài hát cỡ Đam San, Xing Nhã”, và không chỉ bok Đoan, Bă Pơ ở làng Tà Lăng, các làng Tà Điệk, Hà Nhe, Tà Lấk, Klot, Kon Blò… đều có những nghệ nhân dân gian hát hay, thuộc nhiều bài, ngắn cũng gần một giờ, dài cũng đến ba, bốn giờ.
Vậy là liên tiếp 5 năm, tôi đã làm những cuộc “trở về” để sưu tầm, biên dịch cả chục trường ca sử thi Bahnar Konkđeh và Bahnar Kriêm. Mỗi câu chuyện có chủ đề và tình tiết khác nhau; những diễn biến ly kỳ, hấp dẫn khác nhau, nhưng đều là những thiên anh hùng ca tráng lệ về nghĩa khí, những trang trữ tình đằm thắm, hoặc những mông muội khác thường. Đó là một Dyông Dư mặt xấu nhưng có tài đức cảm hóa được tính hung bạo của người nhà Bok Tung Bul, nàng Bya Pkao yêu chàng và chàng đã cởi bỏ lốt xấu thành đẹp trai nhất núi rừng và họ hạnh phúc mãi mãi. Đó là chàng Pham Sao kỳ dị, không biết làm rẫy, chỉ biết ngủ và ngủ một giấc đến bảy trăm năm, chỉ có chàng mới tiêu diệt được người đầu hổ, một biến tướng của người thú tài sức và ác, ăn thịt người. Đó là chàng dũng sĩ Dyông Wiwin giết con vích cái Bya Kbư cứu nàng Bya Bông xinh đẹp, cuộc tương tư ốm o của nàng và Dyông để cuối cùng sau khi dẹp yên các trai làng ghen tức thành giặc giã, hai người mới đến với nhau. Rồi một Đăm Pen mới lên ba chỉ với cái khiên của ông cha để lại, một mình dám xông vào hang hổ, đối đầu với lão Bok Grơă, một con người thú chuyên ăn thịt người. Cậu bé diệt kẻ thù hung bạo bằng đôi tay mình, cứu cha mẹ, cứu bộ tộc khỏi hiểm họa xong trở về với làng cũ, rừng xưa… Vô cùng phong phú những người, những cảnh và những diễn biến bất ngờ, kỳ ảo trong các trường ca mà chỉ riêng chuyện Dyông Dư có tám nhân vật chính, mỗi nhân vật kể đến bảy, tám đêm, khan hơamon “từ lúc mới tra hột bắp xuống đất đến lúc bắp ăn tràng mới hết”!
Không gian sử thi không hề hạn hẹp ở cảnh núi cao rừng sâu mà mở rộng đến bao la cõi trời, cả cõi âm huyền bí. Sử thi Dyông Wiwin không gian dài đến biển. Thậm chí có cả làng dưới đáy biển trong Bông Dyông…
Trong lời bạt cuốn “Sử thi Bahnar Konkđeh” Hà Giao viết: “Người Bahnar hiện thời đều ở núi xa, sao trong sử thi của họ nói người Bahnar có ở biển khơi? Vậy sử thi không chỉ là đối tượng nghiên cứu của văn học và âm nhạc, sử thi còn là đối tượng của sử học, của xã hội học, của triết học…”.
Tất nhiên rồi, cả phong hóa, địa chí, dân tộc học nữa, vân vân. Và chính những phong phú bất ngờ, những độc đáo về các vẻ đẹp khám phá, các hơamon đã luôn là nguồn cổ vũ động viên ông miệt mài sưu khảo, biên dịch một phần mảng văn hóa dân gian quý giá này trước khi nó hoàn toàn rơi vào quên lãng.
* Lặng lẽ một hành trình
* Trong điều kiện sức khỏe suy giảm phải thường xuyên thuốc men điều trị như hiện nay, ông còn mơ ước điều gì đối với công việc sưu tầm và biên dịch văn học dân gian miền núi?
- Tôi từng có nhiều cuộc lặn lội điền dã từ Vân Canh, Vĩnh Thạnh đến Ya Hội, An Khê để tìm gặp sưu tầm, biên dịch. Song vẫn còn nhiều vùng cao như: An Toàn, Canh Liên có thông tin còn người biết hơamon mà tôi chưa thể tìm đến ghi nhận. Tôi rất băn khoăn không biết rồi những sử thi ở những nơi ấy có còn kịp lưu giữ hay sẽ tiêu tán theo thời gian? Giá như tôi còn có sức lực để có thể tiếp tục những chuyến đi. Hiện tại tôi còn 2 tập bản thảo đã hoàn thành chưa có điều kiện in: “20 sử thi của dân tộc H’re” (làm chung với Đinh Văn Thành) và “Văn hóa Phước Lý” (làm chung với Võ Ngọc An).
Trừ các nhà nghiên cứu, ít người mặn mà với những sản phẩm từ văn nghệ dân gian, mảng miền núi thì càng ít quan tâm. Trước mắt ta là những cuốn sách mà phần đông được trân trọng xếp vào mục lưu trữ. Không riêng Hà Giao, hành trình của các nhà folklore thường lặng lẽ. Lặng lẽ làm. Lặng lẽ gom nhặt một đời và niềm vui cũng không phô phang. Nhưng sẽ thật đáng sợ cho sức sống một dân tộc nếu không có những cuốn sách này, những công trình, những gom nhặt này. Hạnh phúc lớn nhất của họ là những phát hiện và lưu giữ. Trong nỗ lực tự thân vận động, hầu như họ đơn độc và chấp nhận.
Lê Hoài Lương (Thực hiện)
Nguồn baobinhdinh.com
Vài nét về nhà thơ, nhà báo, nhà Folklore Hà Giao
Hà Giao tên thật là Đặng Phùng Mãi
Sinh năm 1937 (Đinh Sửu)
Sinh năm 1937 (Đinh Sửu)
Quê quán : Tiên An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Thạnh (nguyên là Tiên An, Tiên Thuận, Tây Sơn), Bình Định.
Trú quán : 208 Tăng Bạt Hổ - TP. Quy Nhơn – Bình Định.
Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam; Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam; Hội viên Hội Văn học – Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam; Hội viên Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Định.
Tác phẩm đã xuất bản:
Cái rựa (Truyện ngắn) NXB Giải phóng - 1968; Tội ác tột cùng (Ký -in chung) NXB Phụ nữ - 1973; Ngôi sao trong rừng dừa (truyện in chung) Sở VHTT Nghĩa Bình - 1994; Truyện cổ Bahnar Kriêm, NXB văn hóa dân tộc - 1994; Giọt mưa (Thơ), NXB Hội nhà văn - 1995; Tấm áo vỏ cây (Trường ca), NXB Hội nhà văn - 1995; Lá đầu sông đang xanh (Thơ), NXB văn hóa dân tộc - 1996; Dy ông Wiwin (Trường ca Bahnar Kriêm) - sưu tầm biên dịch- NXB văn hóa dân tộc 1997; Chàng Dyông (Trường ca Bahnar Kriêm) - sưu tầm biên dịch- NXB văn hóa dân tộc 1998; Sử thi Bahnar Kriêm (tập 1, tập 2) sưu tầm biên dịch- NXB văn hóa dân tộc 2000; Ngôi sao rừng dừa (Truyện và ký) - NXB văn hóa dân tộc 2001; Sử thi Bahnar KonkĐen - NXB văn hóa dân tộc 2002.
Cái rựa (Truyện ngắn) NXB Giải phóng - 1968; Tội ác tột cùng (Ký -in chung) NXB Phụ nữ - 1973; Ngôi sao trong rừng dừa (truyện in chung) Sở VHTT Nghĩa Bình - 1994; Truyện cổ Bahnar Kriêm, NXB văn hóa dân tộc - 1994; Giọt mưa (Thơ), NXB Hội nhà văn - 1995; Tấm áo vỏ cây (Trường ca), NXB Hội nhà văn - 1995; Lá đầu sông đang xanh (Thơ), NXB văn hóa dân tộc - 1996; Dy ông Wiwin (Trường ca Bahnar Kriêm) - sưu tầm biên dịch- NXB văn hóa dân tộc 1997; Chàng Dyông (Trường ca Bahnar Kriêm) - sưu tầm biên dịch- NXB văn hóa dân tộc 1998; Sử thi Bahnar Kriêm (tập 1, tập 2) sưu tầm biên dịch- NXB văn hóa dân tộc 2000; Ngôi sao rừng dừa (Truyện và ký) - NXB văn hóa dân tộc 2001; Sử thi Bahnar KonkĐen - NXB văn hóa dân tộc 2002.
Dyông Wiwin
Trả lờiXóaTrích đoạn Trường ca Bahnar Kriêm của Hà Giao
Bya Bông vội níu khố Dyông Wiwin
Sợ chàng cũng bay theo Dyă Kơsé
- Ớ Dyông Wiwin nhớ nhé
Dây cườm của em anh đã đeo vào cổ
Mà có lần anh đã quên lời hứa
Để em lo ăn lo ngủ không yên
- Bya Bông à anh đau ốm liên miên
Dù biết rằng em buồn nhiều lắm
Nay dù bão bùng giông sấm
Rừng tan núi lỡ cột đổ nhà xiêu
Ta như đôi chim không bao giờ chích cánh
- Anh có nhớ anh nói gì bên biển
Dù có tàn hoa vẫn là hoa
Em cầm khố anh lau nước mắt chảy ra
Giờ em nói bằng tim bằng óc
Em đổ nhiều nước mắt giữ anh
Xin anh đừng thấy trời xanh mà muốn bay
Đừng nghe tụi ấy mà muốn tới đánh
Đã có Dyă Kơsé của mình trị nó rồi
Dyông Wiwin nhìn mặt Bya Bông đỏ bừng vì rượu
Thương thêm thương mà nói thì phải nói:
- Ớ Bya Bông không bao giờ anh quên em
Cũng không bao giờ anh quên cầm gươm
Không thể để một mình anh Dyă Kơsé
Lính tráng ba làng đông đã đầy trời
- Cứ ở bên em nhé Dyông Wiwin ơi
Em không chịu cho anh đi nữa
Bya Bông ôm chặt cổ Dyông Wiwin
Chàng biết nàng quyết giữ lấy mình
Nên chàng vít cần rượu uống
Chàng một hớp cho nàng một hớp
Khi nhìn mặt đã đỏ lên
Chàng một hớp nàng hai hớp
Rồi đỡ nàng nằm thở nhẹ trên sàn
Nhưng chợt Bya Bông ngồi dậy
Cầm cần rượu trao tay chàng bắt uống
Chàng lại trao cho nàng cần rượu
Nàng vùi đầu vào ngực Dyông Wiwin
Chàng đỡ đầu nàng xuống đùi phải
Nàng mở mắt nhìn cười khúc khích
Chàng đỡ đầu nàng xuống đùi trái
Vẫn khúc khích cười mà đôi mắt lim dim
Rồi đỡ nàng rất nhẹ xuống sàn
Và nhẹ nhàng đắp ngực nàng chiếc xim-broong
Dyông Wiwin trông người đẹp ngủ yên
Nghe như trái tim mình lên tiếng hót
Nhưng trên trời giông sấm vang rền
Nhìn lại nàng lần nữa
Chàng cầm gươm nhẹ bước ra sân
Thấy Dyă Kơsé
Giữa vòng vây giặc
Như đám mây đen
Dyông Wiwin nhón gót phóng mình lên
Một tiếng nổ rung trời chuyển đất
Một luồng gió thổi bay lính tráng ba làng
Cả Dyă Kơsé dạt tận chân trời
Tiếng nổ làm Bya Bông tỉnh giấc
Nàng mở mắt nhìn quanh chẳng thấy Dyông Wiwin
Hốt hoảng lao ra sân
Vừa nghe ngứa gan vừa nghe mát ruột
Thấy Dyông Wiwin như cánh chim đum
Đang dịu dàng lướt giữa không trung
Hà Giao
Ghé bài nầy thấy giới thiệu một hành trình của người sưu tầm văn hóa dân gian, gọn mà đủ.
Trả lờiXóaXem như một nén nhang cho người có ra sức cho quê hương.
Vài nét về tiểu sử không bị trùng lặp như các trang mạng khác.
Xem như trang nầy không thuộc dạng lập đi lập lại.
Xin cảm ơn tình cảm của các bác, các cô chú, các anh chị đã dành cho Ba.
Trả lờiXóaBa mất rồi con mới thấy sống như Ba là khó lắm, Ba đi rồi nhưng hình như vẫn ở lại trong lòng bạn bè, người thân,... Người ta nói " con gái nhờ đức cha", con mong mình sẽ được như ba. Ba hãy tiếp thêm cho con nghị lực để sống tốt và tiếp tục hoàn tất những công việc của Ba còn dang dở.
Con gái nhớ Ba!
Năm hết Tết đến , nổi buồn vắng Ba càng nhiều hơn. Tết này không có Ba, ai chuẩn bị xé tờ lịch đầu tiên của năm mới? Không có Ba, ai cúng Ông Táo sáng 23 âm? Không có Ba, ai xúc ấm trà sáng Ba mươi - để rồi làm vỡ nắp ấm -đề nghe má càm ràm? Không có Ba, tối Ba Mươi, ai giục con chuẩn bị bàn thờ cúng Giao Thừa...
Không có Ba, sao chỗ nào cũng trống? Sao làm gì cũng thiếu? Sao lúc nào cũng thấy chông chênh???
Cháu Lam Kiều,
Trả lờiXóaAnh Hà Giao ra đi để lại tiếc thương trong cháu, trong mọi người. Nhưng anh còn để lại những mong ước thực hiện còn dang dở. Ba cháu sẽ vui nếu cháu tiếp bước được công việc nầy.
Chú tin tưởng cháu sẽ hoàn thành tâm nguyện của anh Hà Giao, của cháu.
.