Drop Down MenusCSS Drop Down MenuPure CSS Dropdown Menu
Trang Giao Lưu Cựu HS Trung Học Quang Trung Bình Khê - Bình Định

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2012

NÓI THÊM VỀ BÀI CHÒI



Theo Nguyễn Quang Thắng, Tiến trình văn nghệ miền Nam – H. An Giang, 1990.

Bài Chòi là một loại hình văn nghệ dân gian đậm chất nghệ thuật được sản sinh và phát triển mạnh suốt một khu vực rộng, kéo dài từ Nam Hải Vân đến miền Đông Nam Bộ.

Theo Hoàng Chương (1) thì bài chòi xuất phát ở Bình Định.

Tuy nhiên, theo với thời gian thì việc “đánh bài chòi” đã dần mai một (hiện nay chủ yếu tập trung ở Quảng Nam mà tiêu điểm là Hội An, được duy trì 2 kỳ mỗi tháng), biến thể của nó là hình thức sân khấu (2) như bài chòi pho, bài chòi tuồng có tính cách kịch bản, có thứ lớp như Phạm Công - Cúc Hoa, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Thạch Sanh – Lý Thông … và sau này gọi là dân ca bài chòi (với đoàn dân ca kịch Liên khu 5)

* Hình thức một “ cuộc chơi bài chòi”

Sân chơi thường là một khu đất phẳng hoặc là sân đình, trên đó có dựng 9 hoặc 10 chòi bằng tranh, tre, nứa, lá … không quá cầu kỳ, trong đó có 1 chòi đứng riêng, đối diện với các chòi còn lại, đây là chòi cho “anh Hiệu” (người điều khiển và cũng là hoạt náo viên).

Thành phần trong ban tổ chức bài chòi gồm :

-  Anh Hiệu (quản trò, người có khả năng đứng hô quân bài)
-  Thủ quỹ
-  Một ban nhạc gồm nhiều nhạc cụ : trống cơm, trống cái, đờn cò, trống chầu…

Trong đó, đờn cò là quan trọng nhất vì nó dùng để tiếp hơi cho “anh Hiệu” khi trình diễn, còn các loại trống thì đáng kể đối với người chơi và người đi thưởng ngoạn trò chơi dân gian này.

Khi “bài tới” thì người chạy hiệu phải đem tận chòi người được bài phát một cây cờ cùng với số tiền mà họ được cuộc … (bằng  số tiền mua một cờ ngân (3)). Cuộc chơi tiếp diễn cho đến khi anh Hiệu hô hết các quân bài, nghĩa là khi phát hết cờ bài thì tan một hội. Như vậy, người chơi chỉ để thưởng thức văn nghệ, nghệ thuật  là chính, việc thắng thua không đáng kể - không như các môn sát phạt khác.


Có lẽ người xưa đã khéo léo sáng tạo ra một bộ môn cờ bạc mà không kém phần văn chương này. Kiểu vừa ngồi chòi thưởng thức ca nhạc vừa đánh bài mang nặng tính chất lao động và gần như không dính dáng gì đến văn tự, vì phần lớn người chơi không phải là người có học, mà hầu hết là người dân quê cần cù, lam lũ quanh năm suốt tháng hầu như ít tiếp xúc với chữ nghĩa.

Khi bốc một quân bài, tùy khả năng và cảm hứng của mình “anh Hiệu”, “chị Hiệu” muốn hô câu ngắn, câu dài thế nào cũng được, miễn sao nói được ý nghĩa quân bài đó cho người chơi hiểu

Chẳng hạn khi   bốc trúng con  bài “Tứ cẳng” ( Hương), anh Hiệu ngày xưa có thể hô:

Một hai họ nói rằng không,
Dấu chân ai đứng bên sông hai người!
Tứ cẳng huớ là Tứ cẳng !

Còn bây giờ anh Hiệu, chị Hiệu có thể hô (bài chòi Hội An – Quảng Nam)

 

Nữ:     Em lấy chồng từ thuở 15

Chồng chê em bé không nằm với em

Nam:   Đến nay em 18, đôi mươi
Em có nằm dưới đất chồng cũng lôi lên giường
Nam:   Lên giường anh nói anh thương
Một anh thương, hai anh thương, ba anh thương, bốn anh thương
Nữ:     Anh thương chi hung rứa 4 cẳng giường hắn rung rinh
            (Ới bạn mình ơi)2 là cái anh Tứ cẳng, Tứ cẳng đó là ông Hương, là ông Hương ra rồi. là ông Hương ra rồi
(Con Hương- Tứ cẳng)

Hoặc khi bốc trúng con bài “ Học trò”, anh (chị) ta có thể ngẫu hứng

Chớ đi đâu (mà) cắp sách đi hoài,
 Cử nhơn (mà) không thấy, chớ tú tài (mà) cũng không
 Học trò là (bớ) học trò !

* Ý nghĩa và hình tượng trong các quân bài


Xem xét các quân bài ở Bình Định lẩn các địa phương lân cận, ta thấy các con bài đó đa số vô nghĩa với các hình vẽ của nó. Thí dụ như “ Tứ cẳng”, “ Bạch tuột”, “ Ngủ trưa”, “ Bạch huê”, “Nọc thược”( Thừa Thiên - Huế gọi là Bạch tuyết, Nọc Đượng), ”Liễu”, “Đổ ruột”…

Về ý niệm các tên đó lại càng thêm phức tạp, các ý niệm như “ Đỏ mỏ”, “Tuyết”, “Bảy sưa”, “Bảy liễu”, Tam quăng”…lại càng khác xa, không thể nhìn hình tượng mà đoán được quân bài.

Theo Hoàng Chương (1), Bình Định là nơi sản sinh ra bộ môn này, vì nơi đây là đất nước cũ của Chiêm Thành, người Chiêm Thành dùng vật thể của người đàn bà và dương vật của người đàn ông để thờ (Totem). Những vật thể ấy được vẽ trên những con bài gọi là “Bạch huê”, “Nọc đượng”, “ Liễu”…của bài chòi hiện nay”.

Thêm vào đó, lưu dân Việt từ miền Bắc vào cũng mang theo những tín ngưỡng thờ cúng dâm thần thỉnh thoảng thấy có trong các đình làng từ miền Bắc đến các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị (4).

Những vật ấy được nhân hóa bằng các danh từ “ nõn nường”, “nọ nàng”…

Những hình tượng ấy bên ngoài thể hiện một cái gì sống sượng, nhưng bên trong vẫn biểu hiện sự hồn nhiên, chất phác và hiện thực trong cuộc sống; với truyền thống yêu nòi giống, thích sinh sôi nẩy nở và cả quý trọng “sinh thực khí ” (một phần di tích văn hóa Chiêm Thành xưa).

Trong sinh hoạt văn hóa dân gian, người dân lao động sáng tác nên những ca dao, tục ngữ, dân ca… nói lên ý niệm đó. Lời ca tuy tục nhưng khi thể hiện ra thì không có gì là xấu hổ, e thẹn; mà còn là một việc rất tự nhiên trong cuộc sống và trong suy nghĩ, phù hợp với nhân sinh quan chất phác và hiện thực ấy.

Như vậy, có thể thấy các ý niệm qua lối họa hình và ca từ đã được người xưa tiếp nhận và sáng tạo ra trong cuộc sống của mình trên con đường lưu cư từ khi đặt chân vào vùng đất mới rồi lan tỏa vào Nam, ra Bắc (Nam - Ngãi, Phú - Khánh) …

Bộ bài gồm 3 pho, đó là:

·         Pho văn: ông Ầm, tráng hai, ba bụng, tứ tượng, ngũ ruột, sáu miếng, lá liễu, tám miếng, chín cu, chín gối.

·         Pho vạn: bạch huê, nhứt trò, nhì bí, tam quăng, tứ móc, ngũ trợt, lục chạng, thất vung, bát bồng, cửu điều.

·         Pho sách: ông Tử, nhất nọc, nhì nghèo, ba gà, tứ sách, ngũ dụm, sáu bưởng, bảy sưa, tám dây, cửu điều.

Mỗi pho có 10 lá, vì phải có 33 lá nên thêm vào 3 lá nữa là: ông ầm đen, tử cẳng đen và cửu điều đen (để phân biệt với 3 lá cùng tên này nhưng màu đỏ) cho đủ bài chơi.

HoaHueb

(1)  Hoàng Chương- Dân ca kịch Bài Chòi Liên khu 5,một nghệ thuật dân tộc đang phát triển - Tạp chí Văn nghệ 50-07-1961, Hà Nội.
(2)  Gồm các tác giả: Hoàng Chương, Võ Phiến, Quách Tấn, Tạ Chí Đại Trường…
(3)  Cờ ngân: Cờ thay cho tiền         
(4)  Theo Đào Tử Khải - Chiếc thạp Đào Thịnh và văn hóa đồng thau - Tạp chí nghiên cứu lịch sử - HN


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét