Một
hôm, trong khu bán sách sale của một thư viện địa phương, tình cờ tôi bắt gặp một
quyển sách còn khá tươm tất, bìa trình bày rất nhã, có tên là LOVE POEMS BY
WOMEN, AN ANTHOLOGY OF POETRY FROM AROUND THE WORLD AND THROUGH THE AGES (Thơ
tình của phụ nữ, một hợp tuyển thi ca khắp thế giới qua mọi thời đại) (1).
Tôi
vội mở ra xem thử. Lật xem trước mục lục thì thấy có tên HỒ XUÂN HƯƠNG trong
danh sách các tác giả có thơ trích giới thiệu.Thế là tôi mua ngay, vì tò mò muốn
biết các học giả tây phuơng đã xếp chung bà chúa thơ tình của chúng ta với những
nữ thi sĩ nào trên thế giới qua mọi thời đại này.
Nói
chung, thơ tình do các cây bút nữ xuất hiện trên văn đàn thế giới từ xưa đến giờ
cũng không phải là it và cũng chẳng phải là một hiện tượng gì đặc biệt. Cách
nay gần 4.300 năm, thơ của nữ thi sĩ Enheduanna (2285 - 2250 trước công nguyên)
ở Sumer, vùng Lưỡng hà châu) đã được khắc bằng chữ hình nêm (cuneiform).
Bà cũng là người được xem như là tác giả đầu tiên của
nhân loại có tác phẩm còn được bảo tồn cho đến ngày nay và lưu lại cho hậu thế.
Nhưng hợp tuyển thơ gồm nhiều tác phẩm của nhiều nữ thi sĩ này, được những học giả nữ nổi tiếng giới thiệu, thiết tưởng cũng đáng cho chúng ta bỏ công tìm đọc.
Lúc
đem sách về nhà, tôi đã vội vã đọc ngay bài thơ trích của Hồ xuân Hương. Thơ bà
chỉ được trích có mỗi một bài, đó là bài QUẢ MÍT
Bài
thơ này được giới thiệu qua bản dịch của GS Nguyễn ngọc Bích, như sau:
THE
JACKFRUIT
I
am like a jackfruit on the tree
To
taste you must plug me quick, while fresh:
The
skin rough, the pulp thick, yes
But
oh, I warn you against touching-
The
rich juice will gush and stain your hands
Bài
dịch chỉ có bấy nhiêu dòng, không hơn, không kém! Tôi tự hỏi chẳng biết độc giả
không phải là người Việt sẽ hiểu như thế nào về nghĩa đen câu thơ dịch thứ hai,
khi bài dịch không có một lời ghi chú nào. Lĩnh hội được thơ của bà, điều lý
thú nhất là hiểu được cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của bài thơ. Độc giả thế giới
nếu không được giải thích rõ, có thể ngộ nhận ý nghĩa bài thơ, và từ đó không
nhận ra giá trị đích thực của nó.
Tôi
sực nhớ đến GS Huỳnh sanh Thông, giáo sư giảng dạy tại đại học Yale, người đã
có công dịch ra Anh văn hầu hết những tác phẩm cổ có gíá trị, như : Truyện Kiều,
Chinh phụ ngâm, Trê Cóc, Ngư tiều canh mục, Bích câu kỳ ngô, Trinh thử, Lục súc
tranh công và hầu hết thơ của các tác gia Việt Nam từ thế kỳ 11 đến thế kỷ 20,
trong đó có thơ nữ sĩ Hồ xuân Hương. GS Huỳnh đã dịch ra Anh văn đến 16 bài thơ
của nữ sĩ và đăng trong hợp tuyển thơ Việt Nam (An Anthology of Vietnamese
Poems) do Yale University Press xuất bản năm 1996. Bài thơ QUẢ MÍT đã được GS
Huỳnh dịch ra Anh văn như sau:
JACKFRUIT
My
body’s like a jackfruit on the tree
The
skin is rough - the pulp is nice and thick
If
you love me, drive into it your plug.
Don’t
fondle it or sap will stain your hands
Cuối
bài còn có thêm phần ghi chú về 2 câu cuối :”The
common practice is to drive a plug or wedge into a jackfruit to test it for
ripeness.The jackfruit is known for the sticky sap that oozes from its rough
skins”.
Chúng
ta nhận thấy bài dịch của GS Huỳnh không dư câu, dư chữ, trong sáng và rất sát nghĩa với bài nguyên tác. Tôi tin rằng
bài dịch như thế này mới giúp độc giả thế giới thực sự hiểu được thơ chúng ta.
Thiết
tưởng ở đây cũng nên chép lại bài thơ QUẢ MÍT để mọi người tiện đối chiếu với lời
dịch của hai dịch giả
QUẢ
MÍT
Thân
em như quả mít trên cây
Da
nó sù sì, múi nó dày
Quân
tử có thương thì cắm cọc
Xin
đừng mấn mó nhựa ra tay
Hợp
tuyển thơ tình của nữ giới này gồm có 257 bài thơ của hơn 200 nhà thơ nữ khắp
thế giới qua nhiều thời đại.Tác giả được trích thơ nhiều nhất là nữ thi sĩ Hi lạp
Sappho (thế kỷ 6 trước công nguyên). Trong hợp tuyển có cả thơ của nữ hoàng
Elisabeth đệ nhất (1533-1603), thơ của công chúa Ba Tư, Zeb-un-Nissa
(1638-1702), thơ của La Comtesse de Dia (sinh khoảng năm 1040) xứ Provencal của Pháp. Còn về thời gian thì trải dài từ nữ thi
sĩ Enheduanna (2285-2250 năm trước công nguyên) cho tới những nữ thi sĩ sinh
vào thập niên 70 của thế kỷ trước.
Trong
một hợp tuyển tương đối có tầm cỡ như thế, không ai dễ gì đọc hết một lần. Sách
dày hơn 300 trang, phần giới thiệu sơ lược ở đầu sách chỉ có 8 trang, còn thì
toàn là thơ trích, không một lời khen chê, vì đây không phải là tác phẩm phê
bình thơ. Tôi thích được đọc thơ có kèm theo lời phê bình hơn là thơ hợp tuyển.
Đọc lời phê bình để mong mở rộng tầm hiểu biết của mình và cũng để đối chiếu, rồi
nghiệm xem vốn kiến thức của mình lĩnh hội thơ người khác được tới mức nào, hiểu
đúng hay sai thơ người khác. Vì thế tôi phải đọc đi, đọc lại thật kỹ những bài
mà tôi thích và khi đã chắc chắn là mình hiểu đúng ý tác giả muốn nói thì mới chọn đưa ra giới thiệu.
Tôi
bỏ qua những bài thơ hóc hiểm của Emily Dickenson. Tôi cũng cho qua những bài
thơ xuất hiện cách nay nhiều thế kỷ vì đã từng có nhiều người đề cập đến, như
thơ của Sappho, Enheduanna, Sulpicia. Và tôi cũng cho qua luôn thơ của những nữ
sĩ quen thuộc, từng có thơ được in trong nhiều tuyển tập thơ và ngay cả trong
sách giáo khoa dạy về văn học sử, như: Elisabeth Barrett Browning, Emily
Bronte, Edna St Vincent Millay, Gertrude Stein, Maya Angelou. Tôi không muốn lập
lại những gì người ta đã khám phá và đã quảng bá cho mọi người biết. Vì thế tôi
bỏ nhiều thời gian quanh đi, quẩn lại giữa trăm hoa khác trong vườn thơ và cố
tìm những bông hoa đầy hương sắc lạ thường, chưa được nhiều người biết đến và
nhắc đến. Số lượng tìm ra được cũng khá nhiều, nhưng không thể trình làng cùng
một lúc, nên phải chọn lựa hai ba lần và chỉ xin giới thiệu dăm ba bài có tứ lạ,
có tình dễ thương mà thôi.
Trong
hợp tuyển thơ tình nữ giới này có giới thiệu 4 bài thơ khuyết danh : một của
Pháp, một của vùng Provencal, đông nam nước Pháp, một của xứ Wales, và một của
đảo Crete. Tất cả đều hay. Đọc những bài thơ khuyết danh này, tự nhiên tôi liên
tưởng đến những bài ca dao của ta. Cũng mộc mạc, thơ ngây, đằm thắm, trữ tình
và đầy bản sắc dân tộc. Bài tôi thích nhất trong bốn bài thơ khuyết danh là bài
thơ lưu truyền ở đảo Crete trong Địa
trung Hải. Bài thơ này đã được Ruth Padel (3) dịch ra Anh văn như sau:
INVITATION
Mother!
It’s snowing in the mountain
and
raining in the valley
and
a stranger’s coming
past
our door. He’s wet
He’s
covered with snow
Mother!
Open up and let him in
Silly
girl, we haven’t any bread
Why
so you want the stranger?
Mother,
there’s bread at the baker’s
Send
me to get it. Darling,
we
haven’t got wine, Why
do
you want the stranger?
There’s
wine at the tavern, Mother
Send
me to get it. My love,
we
haven’t any blankets
and
the night’s cold. What
do
you want with the stranger?
Mother,
my small skirt
will
cover us both
Tôi
xin dịch ra theo thể thơ lục bát cho gần với ca dao Việt Nam:
LỜI
MỜI
-
Tuyết rơi trong núi mẹ ơi!
Và
trong thung lũng đất trời mù mưa!
Có
người lạ, ướt te tua
Đi
ngang qua cữa, mới vừa đấy thôi
Khắp
người tuyết phủ, mẹ ơi
Mở
nhanh cữa trước rồi mời chàng vô
-
Bánh mì hết ráo rồi cô!
Người
xa lạ, muốn mời vô làm gì?
-
Bánh đầy ở hiệu bánh mì
Cho
con đến lấy khó gì, mẹ ơi
-
Rượu vang cũng hết cả rồi!
Tại
sao con lại muốn mời người ta?
-
Rượu đầy ngoài quán kia mà
Cho
con đi lấy, có xa xôi gì
-
Nhà không chăn đắp mới kỳ
Qua
đêm khách biết lấy gì ấm đây?
Con
muốn gì, với người này?
-
Mẹ ơi, váy nhỏ con bày đắp chung
Cả
hai được phủ ấm cùng!
Rời
Địa trung hải chúng ta lên vùng biển tây bắc sẽ gặp xứ Ái nhĩ lan xinh đẹp. Ở
đó, trên bờ bắc ngạn dòng sông Shannon giữa thiên nhiên hoang dã, người tình của
nữ sĩ Nuala Ni Dhomnaill đã dọn cho nàng một chiếc giường tình và họ qua đêm với
nhau cùng hoa vân anh và lũ bướm đêm. Nữ sĩ không tiện nói ra mà mượn lời người
tình viết thành bài thơ ca ngợi mình và tình yêu của hai người. Bài thơ có những
ý rất lạ: Mái tóc gợn sóng của người tình là một đàn dê di chuyển qua đồi núi
nhấp nhô, đồi có vách đá cao và hai hẻm núi sâu. Giữa cảnh thiên nhiên chung
chung, không có gì đặc trưng tại sao lại có con số 2 (2 hẻm núi) giữa những ngọn
đồi nhấp nhô và vách đá cao? Có phải đây là câu thơ tả nghĩa đen mà ngầm chỉ
cho nghĩa bóng kiểu nữ sĩ Hồ xuân Hương?
Bài
thơ tự do gồm 39 câu dài ngắn không đều viết bằng Anh văn. Tôi xin dịch ra 44
câu thơ 4 chữ:
GIƯỜNG
TÌNH
Giữa
đám cỏ cao
Vòm
cây rợp bóng
Thân
đan vào nhau
Chiếc
giường tình mộng
Anh
dọn cho em
Như
tấm lụa đào
Da
em dịu mềm
Trải
trong bóng tối
Khi
lũ bướm đêm
Bay
ra phấp phới
Da
em lấp lánh
Rạng
rỡ thân ngà
Như
dòng sữa lạnh
Rót
từ bình ra
Trong
bữa ăn tối
Tóc
em sóng dợn
Như
đàn dê đi
Núi
đồi uốn lượn
Nhấp
nhô xanh rì
Vách
đá ngất ngưởng
Hẻm
núi vĩ kỳ!
Môi
em mọng ướt
Đẫm
ngọt như đường
Ven
sông sánh bước
Gió
chiều ngát hương
Thổi
qua sông nước
Vân
anh từng đoá
Cúi
thấp trước em
Trịnh
trọng, khép nép
Như
gặp người tiên
Anh
ngắt đôi đoá
Làm
khuyên tai xinh
Đeo
cho người tình
Như
cô dâu mới
Rạng
rỡ nguyên trinh
Anh
dọn cho em
Chiếc
giường tình mộng
Vào
lúc hoàng hôn
Khi
chiều xuống chậm
Sung
sướng xiết bao!
Hai
tấm thân mềm
Quyện
chặt vào nhau
Khi
lũ bướm đêm
Bay
ra phấp phới
Nuala Ni Dhomnaill
(1952-Irish )
Rời
Châu Âu, chúng ta quay về châu Á sẽ được gặp một cô gái biết cắt hai độ dài của
đêm tháng mười một, tháng trọng đông có đêm dài nhất trong năm. Cô cuộn lại một
nửa, giữ dưới tấm ra trải giường! Rồi ướp
nửa mảnh thời gian ấy bằng mùi thơm ngọt tựa
làn gió xuân buổi sớm và chờ đợi người tình về. Khi chàng đến, cô sẽ lấy
ra nửa mảnh thời gian để dành thơm ngát đó và
từ từ mở ra, từng phân, từng phân chắp nối cho đêm hội ngộ được dài them
! Ôi ! lời thơ dễ thương làm sao !
Bài
thơ này chỉ có 6 câu thơ ngắn, được Peter Lee dịch ra Anh văn, tôi dịch ra
thành 10 câu thơ 4 chữ:
EM
CẮT LÀM HAI
Em
cắt làm hai
Đêm
dài tháng một
Phân
nửa giữ bớt
Dưới
ra trải giường
Ướp
ngọt mùi hương
Như
gió xuân sớm
Rồi
khi chàng đến
Em
mở dần dần
Từng
phân, từng phân
Nối
dài đêm mộng
HWANG-CHIN-I
Rất
tiếc, trong bản phụ lục liệt kê tiểu sử tác giả không thấy tên nữ thi sĩ này,
cũng giống như trường hợp nữ sĩ Hồ xuân Hương của chúng ta, thơ có trích mà tiều
sử không có! Nhưng theo cách phiên âm thì có lẽ đây là một người Trung Hoa mà
không biết sống ở thời nào!
Ngược
lên vùng băng tuyết Thụy Điển chúng ta bắt gặp một bài thơ trong đó diễn tả tâm
tình của một cô gái lần đầu khám phá ra cảm xúc kỳ diệu lúc đôi bàn tay cô bỡ
ngỡ nằm gọn trong đôi bàn tay người tình. David McDuff dịch ra Anh văn dưới dạng
thơ tự do và bản Việt ngữ cũng xin dịch ra dưới dạng đó:
KHÁM
PHÁ
Tình
anh làm mờ vì sao của em
Trăng
đang lên trong cuộc đời em
Tay
em còn bỡ ngỡ trong tay anh
Tay
anh là khát vọng
Mà
tay em đang khao khát
Edith
Sodergran(1892-1923 Thụy Điển)
Tôi
chọn bài thơ này vì tôi liên tưởng đến hai câu hát trong bản tình ca Lặng nghe mùa xuân về, đậm đà bản sắc dân tộc của nhạc sĩ Dương Thụ mà tôi
rất yêu thích:
…
Cho em nắm tay, nắm tay anh, khi mùa xuân về
Cho
em khát khao, khát khao anh khi mùa xuân về …
Nhưng
nỗi khát vọng đó rất dịu dàng, rất nữ tính, khác với nỗi khát vọng mà một nữ sĩ
xứ Armenia mô tả. Bài thơ được Dianna Der Hovanessian dịch ra 20 câu ngắn, tôi
rút gọn thành 16 câu lục bát:
KHÁT
VỌNG
Muốn
riêng chào đón mình anh
vào
hồn em, tựa vị thần lang thang
Rã
rời vì lỡ lạc đường
Để
nghe anh gọi thân thương là nhà
Và
em giới hạn vườn ta
Họa
mi chỉ một giọng ca tuyệt vờì
Véo
von riêng tặng em thôi
Ươm
trong giọng hót một trời tự do
Muốn
giam anh giữa tim này
Trong
dòng máu chảy đêm ngày triền miên
Trong
xương cốt của thân em
Từng
khoe yểu điệu dáng tiên gọi mời
Khi
em từ giã cõi đời
Muốn
tên em khắc sâu vào tim anh
Tim
anh là đá luyện thành
Tình
đài kỷ niệm chúng mình thiên thu
Shushanig Gourghenian
(1876-1927 Armenia)
Nhưng
dù cho hai tâm hồn có nhập được lại làm một, như cặp tình nhân Iran trong bài
thơ dưới đây, có khi ngồi bên nhau mà vẫn cảm thấy cô đơn. Như lời trong một
câu thơ Việt: Hai người nhưng vẫn thấy cô
đơn! Đó cũng là bi kịch của con người!
Bài
thơ này được Hasan Javadi & Susan Sallee dịch ra Anh văn dưới dạng thơ tự
do gồm có 13 câu, và tôi giữ nguyên số câu cùng cách ngắt câu của bài dịch đó:
ĐÔI
LỨA
Đêm
chìm xuống
và
sau đêm là bóng tối
và
sau bóng tối
là
những đôi mắt
là
những bàn tay
và
nhịp thở, thở, thở
và
tiếng nước
nhỏ
từ vòi nước từng giọt, từng giọt, từng giọt
Rồi
hai đóm lửa đỏ
của
hai điếu thuốc đang cháy
tiếng
tích tắc của đồng hồ
và
hai con tim
Và
hai nỗi cô đơn
Forugh Farrokhzad (1934-67
Iran)
Iran
là xứ sở của nhiều thơ hay do nhiều thi sĩ, nam cũng như nữ sáng tác. Chỉ riêng
trong hợp tuyển thơ này đã có đến bốn nữ sĩ có thơ chọn đăng. Trong khi đó, một
nước Á châu khác cũng có nhiều nữ thi sĩ là Trung Hoa, thì chỉ có hai người có
thơ chọn đăng, gồm có Wu Tsao, được giới thiệu là một nữ sĩ nổi tiếng trong giới
đồng tính nữ, và Mei-mei Berssenbrugge là một người Mỹ gốc Hoa. Nếu kể cà
Hwang-Chin-I ở trên nữa thì cũng chỉ có ba người.
Chẳng
hiểu vì sao các tác giả hợp tuyển thơ này không nhắc đến Lương Ý Nương, một nữ
sĩ nổi tiếng với bài thơ Trường tương tư, bài thơ hay lấy cảm hứng từ chính cuộc
tình đầy nước mắt của bản thân mình. Tôi cho là thiếu sót nếu như chúng ta bỏ
qua không nhắc đến bài thơ đó. Vậy tiện đây xin chép lại để mọi người cùng nhớ
lại một bài thơ mà mình hằng yêu thích.
Trường tương tư(2)
Hoa hoa diệp diệp lạc
phân phân,
Chung nhật tư quân bất
kiến quân.
Trường dục đoạn, hề
trường dục đoạn,
Lệ châu ngân thượng cánh
thiêm ngân.
Ngã hữu nhất thốn tâm,
Vô nhân cộng ngã thuyết.
Nguyện phong xuy tán
vân,
Tố dữ thiên biên nguyệt.
Hồ cầm thướng cao lâu,
Lâu cao nguyệt hoa mãn.
Tương tư đàn vị chung,
Lệ trích cầm huyền đoạn.
Nhân đạo Tương giang
thâm,
Vị để tương tư bán.
Giang thâm chung hữu để,
Tương tư vô nhai ngạn.
Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang
vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang
thuỷ.
Mộng hồn phi bất đáo,
Sở khiếm duy nhất tử.
Nhập ngã tương tư môn,
Tri ngã tương tư khổ.
Trường tương tư, hề
trường tương tư,
Trương tương tư, hề vô
tận cực.
Tảo tri như thử quải
nhân tâm,
Hồi bất đương sơ mạc
tương thức.
Lương Ý Nương
Có
nhiều bản dịch bài thơ này ra Việt ngữ, nhưng chẳng có bài nào được mọi người
chấp nhận là hoàn chỉnh nhất. Gần đây, có một số dịch giả chẳng biết vì sao dịch
ra một số chỗ rất ngớ ngẩn. Chẳng hạn như chữ NGÃ và THIẾP trong bài trên ai
cũng hiểu là lời tự xưng của tác giả Lương Ý Nương, còn chữ QUÂN thì chỉ cho
người tình Lý Sinh của nàng. Vậy mà có một dịch giả (Đ.V.N.) đã dịch câu thơ “Chung nhật tư QUÂN bất
kiến QUÂN”
thành : “Suốt ngày mong nhớ nào đâu thấy NÀNG”
(?!) đăng trên trang mạng THI VIỆN ở trong nước!
Hầu
như sinh viên văn khoa Saigon thuở trước ai cũng đều thuộc lòng một bài dịch
tương đối hoàn chỉnh, nhưng sau hơn nửa thế kỷ, bây giờ chỉ còn nhớ chừng một nửa.
Muốn tìm lại đủ bài, lục khắp các trang mạng cũng chẳng thấy bài dịch đó, nên tạm
thời dùng bản dịch tương đối khá dưới đây của Vũ ngọc Khánh, mặc dù có đôi chỗ chép
nguyên văn những câu của bài thơ dịch mà trước đây chúng tôi đã từng thuộc
lòng:
Tương tư dài
Hoa hoa lá lá rụng tơi
bời
Lòng nhớ người, sao
chẳng thấy người
Ruột muốn đứt thêm, thêm
đứt ruột
Châu rơi thành ngấn lại
châu rơi
Ta có một tấc lòng
Không có ai mà hỏi
Muốn nhờ gió đuổi mây
Để được cùng trăng nói
Ôm đàn lên lầu cao
Lầu cao trăng giãi khắp
Tương tư khúc chẳng
thành
Lệ nhỏ dây đàn đứt
Người bảo sông Tương sâu
Tương tư sâu gấp bội
Sông sâu còn có đáy
Tương tư chẳng bến bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không gặp mặt
Cùng uống nước sông
Tương
Hồn mộng bay không đến
Còn một chết thôi mà
Bước vào cửa tương tư
Mới biết tương tư khổ
Tương tư hoài, dài tương
tư
Tương tư dài, dài khôn
xiết
Sớm biết nỗi đau lòng
Xưa đừng cùng quen biết.
Vũ ngọc Khánh dịch
Qua dăm bài thơ tình
tiêu biểu trên của nữ giới, chúng ta nhận thấy tác phẩm của họ đâu có kém gì
thơ của các đấng mày râu. Có khi đọc thơ tình của họ, chúng ta còn cảm thấy thú
vị hơn, vì có cảm tưởng như được nghe những lời tình tự, thủ thỉ bên tai từ một
ngưòi tình!
Tôi
chợt nhớ đến một bài thơ cổ :
Chàng như mây mùa thu
Thiếp
như khói trong lò
Cao
thấp dù có khác
Một
thả cũng tuyệt mù
Bài
thơ tuy ngắn nhưng hàm chứa nhiều ý, trong đó ý chính là nhận ra khả năng tiềm ẩn
và tài năng thực sự của nữ giới khi so sánh với tài năng của nam giới. Trong xã
hội cũ, vai trò của người phụ nữ chỉ là phụ thuộc và giới hạn trong phạm vi gia
đình. Vì thế, tài năng của họ không có cơ hội phát triển.Nhưng một khi có điều
kiện, tài năng tiềm ẩn của nữ giới cũng thể hiện một cách xuất sắc trong mọi
lĩnh vực như ngày nay chúng ta đã thấy.
Trong
bài thơ trên, người phụ nữ khiêm tốn ví mình thấp kém như khói trong lò và tôn
vinh người tình của mình như mây mùa thu bay trên trời cao. Nhưng dù ở vị trí
nào, cao hay thấp, cả mây và khói, một khi được tự do bay thì cũng bay bỗng tuyệt
mù.
Tôi
rất tâm đắc với bài thơ này. Và mỗi khi nghĩ đến những gì liên quan tới sự so
sánh tài năng giữa nam và nữ, nhất là trong lĩnh vực văn chương, nghệ thuật,
tôi thường thi vị hoá suy nghĩ của tôi bằng những hình ảnh đẹp qua bài thơ này.
Vì thế, trong khi thưởng thức thơ tình của những cây bút nữ, tôi hình dung ra
trong trí những sợi khói lam chiều thơ mộng, uể oải vươn mình lên khỏi những nếp
nhà tranh vào một chiều thu đẹp như trong ca dao, để sánh vai cùng bay với những
áng mây thu bàng bạc, lãng đãng bên trời.
P.Anh
(1) Đây là một công trình biên khảo của 4 nữ
tác giả nổi tiếng của Anh và Mỹ. Các tác giả đã đọc hơn 3000 bài thơ và chọn lọc
ra đượ 257 bài giới thiệu trong hợp tuyển
thơ này.Chủ biên là Wendy Mulford, gốc ở xứ Wales, nhưng nơi sống chính là
Cambridge. Bà đã thực hiện được 7 tuyển tập thơ cùng 8 tác phẩm nghiên cứu
khác.Cùng hợp tác với bà có:
- Helen Kidd, cũng là một thi sĩ. Bà là giảng
sư Anh ngữ tại Oxford Polytechnic, đồng chủ bút New Poetry from Oxford. Bà cũng
giảng dạy thi ca hiện đại của phụ nữ tại Wolfson College, Oxford và có công
đóng góp vào hai tuyển tập bình luận về thơ : Diverse Voices: Essays on Womem
Writers Around the World, và Poetry and Theory.
- Jukia Mishkin sống ở New York và Cambrifge,
cũng là một thi sĩ. Thơ bà được phổ biến rộng rãi trên các tạp chí : Yale
Review, Poetry, The nation, The Iowa Review, Pequod, và Paris Review
- Sandy Russel là một ca sĩ nhạc jazz kiêm nhà
văn gốc ở New York và sống ở Durham. Bà từng phỏng vấn nhiều văn sĩ Mỹ da đen,
viết thành tác phẩm và đã được xuất bản
có tên là : Render Me My Song:African-American Writers from Slavery to the
Present
(2) Ghi chú về nguồn gốc bài thơ Trường
tưong tư và tác giả Lương Ý Nương: Trong Tình Sử có chép : “ Vào triều nhà Hậu
Chu, đời Ngũ Quý, có người con gái Lương
Tiêu Hồ tên là Lương Ý Nương, cùng với Lý Sinh là họ hàng con cô, con cậu. Lý
Sinh thường qua lại thăm nàng nhiều lần.
Nhân đêm trung thu ngắm trăng, ngầm hẹn ước với Ý Nương, lưu luyến không nỡ rời.
Sự việc lâu ngày lộ ra, Tiêu Hồ nổi giận, ngăn cấm hai người gặp nhau. Gặp ngày
thu buồn, Ý Nương viết bài thơ này
(3) Ghi chú về tiểu sử các tác giả có thơ
chọn đăng và các dịch giả dịch thơ viết bằng các ngôn ngữ khác ra Anh văn:
Trong
số hơn 200 nhà thơ nữ có thơ chọn đăng trong hợp tuyển thơ này chỉ có 197 người
có ghi tiểu sử ngắn gọn từ 1 dòng đến 6 dòng. Còn một số thì không có tiểu sử,
như nữ sĩ Hồ xuân Xương của chúng ta chẳng hạn.
Về
dịch giả, trừ những tác giả Anh, Mỹ, Canada, Scotland, Ireland, Wales viết bằng
tiếng Anh ra, còn một số lớn tác giả khác viết bằng ngôn ngữ riêng của họ, rồi
được các dịch giả dịch ra Anh văn. Bỡi vậy số dịch giả rất đông.Ví dụ như về
bài thơ QUẢ MÍT của nữ sĩ Hồ xuân Hương thì ghi tên dịch giả là Nguyễn Ngọc
Bích. Nhưng rất tiếc, không có một dòng nào về tiểu sử các dịch giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét