Tôi
có mấy lần được Hòa thượng Tịnh Như, trụ trì chùa Viên Giác, mời đến uống trà.
Hòa
thượng trụ trì là người yêu thơ, có sáng tác mấy tập thơ đượm vị thiền. Tôi yêu
hai câu thơ dịch của ngài :
“Trời
xanh bát ngát mây vương núi
Hồ
biếc êm đềm nước động trăng”
Nguyên
văn chữ Hán cùng thủ bút của tác giả khắc trên tam quan chùa cổ Viên Giác nay vẫn
còn:
“Nguyệt
hạ bất xao kim tỏa đoạn
Sơn
tiền chỉ nhậm bạch vân phong”
(Hòa
thượng Bích Liên - Chủ bút Tạp chí Từ Bi Âm, trước 1945)
Có
lần, chủ khách uống cạn mấy ấm trà, ngài hứng khởi hỏi tôi:
- Ông giáo nè, ông có chịu với tôi là thơ văn
viết về thú uống trà nhiều lắm và có nhiều bài hay?”.
Tôi
liền đáp:
- Dạ thưa ngài, trong Truyện Kiều danh tác,
Nguyễn Du đã viết hai câu thực hay:
“Thiền
trà cạn nước hồng mai
Thong
dong nối gót thư trai cùng về “
để tả
cảnh Hoạn Thư dẫn Thúc Sinh về nhà sau khi hai người đã dùng trà xong tại Quan
Âm Các, do Thúy Kiều thiết đãi, và để lại cho Thúy Kiều thêm một nỗi kinh hoàng
nữa. Nhà văn Nguyễn Tuân viết tùy bút Những chiếc ấm đất tài hoa lắm.
Hoà
thượng tơ mơ, gật gù:
- Theo tôi nghĩ, việc uống trà ở nhà chùa chúng
tôi được gọi là “thiền trà” có lẽ kể từ đó. Còn ông nhà văn viết tùy bút kia là
bực văn tài, lại sành điệu uống trà, có thể xếp vào hàng đệ tử của “Trà đạo”.
Tôi yêu biết mấy bài thơ Qua áng hương trà của thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
“Hương
biếc tràn quanh nắp đậy hờ
Ấm
sành nho nhỏ khói lên tơ
Hồn
sen thoảng ngát trà dâng đượm
Ai
biết mình sen rụng xác xơ”.
Đến
khổ kết của bài thơ thì “nên câu tuyệt diệu” giàu ý nghĩa nhân văn, thức tỉnh
ta quay về với Tâm không của nhà Phật, ông giáo nhé:
“Nâng
chén mời anh thưởng vị trà
Đừng
quên tan tác mấy đời hoa
Cạn
từng hớp nhỏ cho Sen đượm
Vớt
lại trần ai một chút Ta”.
Nhân
ngài dừng lại nhấp ngụm trà, tôi hầu chuyện tiếp:
- Thưa ngài, Quách Tấn còn có bài “mời bạn chén
trà đưa tiễn”.
Ngài
hỏi tôi:
- Có phải ông giáo muốn nói bài Động hoàng hôn
đấy chứ?
Rồi
ngài cảm khái đọc bài thơ và kèm theo lời bình:
“Hương
trà chưa cạn chén hàn ôn
Thuyền
đã buông theo tiếng sóng dồn
Ngắm
vọi mây thu ùn mặt biển
Gác
chuông thành cổ động hoàng hôn”.
Tiễn
người ra đi bằng một tiệc trà như thế, tôi chắc là người đi hương trà còn bay
theo người mãi, cho tới khơi xa. Và tôi cũng cho rằng ông nhà thơ cũng cắc cớ.
Tại sao không làm cuộc tiễn bằng rượu như thông lệ mà lại bằng trà?
Hương
trà đang còn thoảng, Hoà thượng vẫn xắn tay áo tràng rót “chén tống chén quân”
mời tôi. Tôi tiếp lời ngài:
- Thi nhân xưa nay, thơ với rượu đi kèm là
thông lệ, cho nên ông Tản Đà mới viết: “Không thơ không rượu sống như thừa”.
Ông Quách Tấn đã cắc cớ tiễn người ra đi bằng trà mà ông bạn thơ thân thiết của
ông cũng không kém:
“Chè
đọt đang kỳ điểm lá ba
Giọt
sương lách tách cửa song nhòa
Thơ
ngồi suốt buổi không ra tứ
Cháu
đã đun tràn ấm nước pha”
(Yến
Lan).
Hòa
thượng Tịnh Như, trụ trì chùa Viên Giác, nay không còn nữa, chắc là ngài đã về
cõi của Như Lai, nhưng cái phong cách uống trà, cái dáng đi nhẹ thênh như mây
như khói và cái hồn yêu thơ của ngài thì tôi không thể nào quên cho được.
Huỳnh Kim Bửu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét