Drop Down MenusCSS Drop Down MenuPure CSS Dropdown Menu
Trang Giao Lưu Cựu HS Trung Học Quang Trung Bình Khê - Bình Định

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025

VIÊN TRI HUYỆN BÌNH KHÊ NĂM 1888


Vua Hàm Nghi bị bắt ở Tân Sở 

Huyện Bình Khê thành lập tháng 9 năm 1888, Tri huyện đầu tiên trấn nhậm ở đây là ai!

Ở Phú Yên thời Cần vương năm 1885 có thủ lĩnh Lê Thành Phương cùng Phó soái Bùi Giảng. Tháng 2 năm 1887, lính Pháp của Thiếu tá Chevreux và lính bản xứ của Trần Bá Lộc đổ bộ vào vịnh Xuân Đài. Sau vài trận đụng độ, Trần Bá Lộc kêu quân Cần vương ra hàng. VN Kháng Pháp Sử của Phạm Văn Sơn tr189 chép:

+  “Bùi Giảng mang bộ hạ ra hàng, mang tiền bạc đã chiếm được khi đánh thành Phú Yên dâng cho Lộc. Y còn xin làm con nuôi Lộc để được đề bạt với thực dân Pháp và nhận chức Ký lục tại Sông Cầu; sau 6 tháng y được bổ tri huyện rồi thăng dần lên tới chức Tổng đốc Bình Định vào ít năm tới. Từ giai đoạn bước sang nghề hại dân bán nước, y đổi tên họ ra Bùi Tử Quảng và thành một tay sai đắc lực cho đế quốc”.

Xét Bùi Giảng nhận chức Ký lục tại Sông Cầu; sau 6 tháng được bổ tri huyện rồi thăng dần lên tới chức Tổng đốc Bình Định, thì đúng Bùi Giảng về Bình Định, ông làm tri huyện ở Bình Khê mới lập.

Không rõ tri huyện Bùi Giảng trấn nhậm Bình Khê đến năm nào. Chỉ biết năm 1908 Bùi Giảng đang làm Án sát đạo Quảng Trị. Vào tháng 4, Bùi Giảng và Án sát Bình Định là Huỳnh Lưu hoán đổi nhiệm sở cho nhau. Mục 1506 Đại Nam Thực Lục phụ biên Đệ lục kỷ có chép:

  +  Man dân Bình Định bắn chết quan Pháp Ba Di. Giám đốc Đô Phi Ninh bàn xin chuẩn lấy Án sát Quảng Trị Bùi Quản tới tỉnh ấy để dự bị bàn bạc.

Vậy là Bùi Giảng đổi ra Bùi Tử Quảng, còn gọi là Bùi Quản nữa! Pháp muốn đưa Bùi Giảng về lại Bình Định là vì theo lời tâu của phủ Phụ Chính: Quản từng làm việc phủ huyện ở Bình Định, am hiểu tình hình. Am hiểu tình hình Bình Định, nên Bùi Giảng được đưa về để bàn bạc đàn áp Phong trào Cự sưu Kháng thuế ở đây.

Phong trào phát sinh ở tỉnh Quảng Nam, hô hào dân quyền, cúp tóc ngắn mặc Âu phục, mở trường diễn thuyết… Quốc sử quán nhà Nguyễn chép là: Lúc bấy giờ dân Quảng Nam xin sưu náo loạn, phủ huyện cơ hồ không thể chế ngự. Vào đến Bình Định lại nổ ra “đánh lính cướp súng, cản trở Công sứ”, làm chết cả quan Pháp.

Bùi Giảng về lại Bình Định, cầm súng lên thành bắn thẳng vào hàng người dân áo lá nón cời, ôn hòa ngồi ngay ngắn dưới thành, đang đòi bỏ sưu, giảm thuế nặng nề, đang đòi quyền được sống của mình. Bùi Giảng cùng quân Pháp mạnh tay giải tán phong trào. Sau Bùi Giảng cùng Tổng đốc mới là Bùi Xuân Huyên ngồi xử án vụ Dân biến ở Bình Định. Tổng đốc Bình Định Tôn Thất Đạm đã bị triệt hồi về Kinh vì nhẹ tay với phong trào. Dân biến ở Bình Định cả ngàn người bị bắt, nhiều người bị chém, có số bị lưu đày Côn đảo. Tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo người Hòa Cư, linh hồn của phong trào bị Bùi Giảng kết án tử hình. Nhờ cuộc vận động của các đồng liêu người Bình Định ở Kinh đô, án tử hình của Hồ Sĩ Tạo được giảm còn khổ sai chung thân, mãi đến năm 1920 mới được ân xá, trả về quê. Thời ấy, Phan Châu Trinh trách Bùi Giảng và Bùi Xuân Huyên trong Trung kỳ Dân biến Thỉ mạt ký: “Quan kế nhậm theo chỉ thị thêu dệt, nên chém giết nhiều. Thảm thay!”

Bùi Giảng đến năm 1916 được thăng Tổng đốc Bình Định. Viên tướng Cần vương quỳ lụy kẻ thắng cuộc để xin được làm quan, thản nhiên dẫm lên xương máu của đồng bào để thăng hàm tiến chức. Bao nhiêu đấy chẳng còn lời để diễn giải sự đời. Viên tri huyện đầu tiên của huyện Bình Khê đầu không xuôi nhưng đuôi có lọt không! Mà từ đó người Bình Khê ít khi vồ vập, kề cận kẻ chức quyền.

 Phan Trường Nghị


Thứ Năm, 25 tháng 4, 2019

25 NĂM THƯƠNG HẢI BIẾN VI TANG ĐIỀN


Người xưa có câu Tam thập niên vi nhất, thương hải biến vi tang điền – Cứ ba mươi năm một lần, biển xanh hóa thành ruộng dâu, ruộng dâu hóa thành biển xanh. Trải qua một kiếp nhân sinh, con người ít nhất phải có một lần chứng kiến sự thay đổi của chung quanh, như Tú Xương đã từng giật mình, nghe tiếng ếch kêu mà tưởng đó là tiếng gọi đò:

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai 
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
(Sông Lấp – Trần Tế Xương)

Biến đổi biển xanh hóa thành nương dâu không hẳn là ba mươi năm hay bốn mươi năm có được một lần. Bất quá nó hình tượng hóa sự thường xuyên có việc thay đổi chung quanh là do biến động của thiên nhiên, và không loại trừ là do bàn tay của con người tác động vào. Như ở Bình Định bấy lâu truyền rằng do vua Thái Đức Nguyễn Nhạc bị ông Thầy Địa lý người Tàu mê hoặc, đã cho thay đổi dòng chảy của sông Côn và phụ lưu của nó: 

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2019

NHỮNG TRẬN CHIẾN Ở TRƯỜNG ÚC


Trường Úc là địa danh thuộc huyện Tuy Phước, từ lâu nó nổi tiếng nhờ những lò vôi một thời cung cấp sản phẩm cho xây dựng, hoặc cho những lò nấu đường thủ công của tỉnh Bình Định. Sự nổi tiếng đó đi kèm với câu ca từ xưa thắm đượm ý tình đôi lứa:

Bao giờ Cầu Úc hết vôi
Đôi ta hết đứng hết ngồi với nhau.

Trường Úc còn hiện diện qua lễ hội Chợ Gò, cái chợ nằm dưới chân núi Úc, ở đây mỗi năm nhóm họp chỉ mỗi một buổi sáng ngày Mồng 1 Tết, là chỉ để bán cái xui rủi, mua lấy cái may mắn đầu năm.

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2019

XƯA & NAY, KỶ NIỆM 25 NĂM THÀNH LẬP



Số tháng 3 năm 2019, tạp chí Xưa & Nay kỷ niệm 25 năm thành lập, có đăng bài Quân Ngự Lâm Của Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh. Từ trang 19 đến trang 25. 

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2019

BA CHÌM BẢY NỔI LỄ TIẾT – TẾT HÀN THỰC



Trước xưa ở Việt Nam có những lễ tiết mà nay lần hồi đã đi vào quên lãng, như Hàn Thực (mồng 3 tháng Ba), Thất Tịch (mồng 7 tháng Bảy), Trùng Dương (mồng 9 tháng Chín)… Dĩ nhiên lễ tiết sinh hoạt ở trong dân gian, nếu không hiện diện trong ca dao, tục ngữ thì đôi khi thể hiện trong thơ văn của những nhà khoa bảng, văn học. Có thể sơ lược một đôi bài liên quan các lễ Tiết đó:

+ Về tết Thượng nguyên, có bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu của Nguyễn Du, nói đến nỗi niềm của người góc biển chân trời đêm Rằm tháng Giêng, trăng sáng đầy trời vẫn đến với kẻ cùng đường tuổi mới ba mươi.

Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thùy gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2019

XỨ CÀ ĐÁO


Ở Tây Sơn – Bình Định, Cà Đáo là tên gọi trước đây của thôn Dõng Hòa, xã Bình Hòa. Dõng Hòa phía Nam giáp sông Côn, phía Đông là thôn Vĩnh Lộc và Trường Định cùng xã, phía Bắc là thôn Kiên Ngãi xã Bình Thành, phía Tây là Thuận Nghĩa của Thị trấn Phú Phong. Đúng ra Xứ Cà Đáo xưa không phải chỉ diện tích bấy nhiêu như hiện giờ. Thời Gia Long có Dõng Hòa Nhứt khách hộ ấp và Dõng Hòa Nhì khách hộ ấp, mà Dõng Hòa Nhì đến thời Minh Mạng đổi làm thôn An Dõng, còn lưu tên đến ngày nay thuộc xã Bình Thành.

Danh xưng Cà Đáo, có người còn gọi là Kỳ Đáo. 

+ Bất quá, gọi là Kỳ Đáo cho có ngữ âm tiếng Việt, viết được bằng văn tự Hán ngữ cho có nghĩa, giống như vùng ở phía trên xa có địa danh Hà Riêu được gọi trại ra là Hà Rêu (Hán ngữ là Đài Thủy). Xem ra Cà Đáo là ngữ âm của người Chiêm Thành, mà hiện giờ ở các vùng lân cận vẫn còn di chỉ Champa, trong các di chỉ đó, nổi bật nhất là Tháp Dương Long. 

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2019

TÌNH SỬ VÕ ĐÔNG SƠ - BẠCH THU HÀ


BỐI CẢNH RA ĐỜI

Người miền Nam trước đây từng sống trong cơn lửa binh, cũng từ đó mà phần đông cảm nhận được và mê mẩn hình tượng nhân vật Võ Đông Sơ qua 6 câu vọng cổ của soạn giả Viễn Châu. Trong cải lương, tình sử Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà cũng đã dựng thành vở, do cụ Nguyễn Tri Khương (1890 – 1962) soạn cho gánh Đồng Nữ Ban khoảng năm 1927.

Có tích mới dịch nên tuồng, khởi đầu tích tuồng là dựa theo truyện Giọt Máu Chung Tình của nhà văn Tân Dân Tử, in ở Sài Gòn năm 1926. Giọt Máu Chung Tình còn được biết với cái tên là Thảm Kịch Tùng Đình. Tác giả Tân Dân Tử (1875 – 1955) người làng Tăng Nhơn Phú, huyện Thủ Đức, Gia Định (Nay Tăng Nhơn Phú thộc quận 9, TpHCM). Tên thật ông là Nguyễn Hữu Ngỡi, có lẽ do âm miền Nam đọc trại chữ Nghĩa mà ra. Chưa rõ họ tộc ông có thuộc tộc công thần Nguyễn Hữu của triều Nguyễn hay không. 

Thứ Năm, 3 tháng 8, 2017

BÊN BỜ SÔNG CÔN - GÁI PHÚ PHONG NGỒI TRONG DỆT LỤA


Theo một câu ca xưa cho thấy đất Phú Phong, thị trấn của huyện Tây Sơn, Bình Định, từ lâu nó đã nổi tiếng với nghề ươm tơ dệt lụa :

Gái Phú Phong ngồi trong dệt lụa
Gái Cây Dừa cấy lúa quanh năm

Đất Phú Phong ngày xưa gọi là Cây Cốc. Còn vùng Định Quang, Định Bình của huyện Vĩnh Thạnh bây giờ, ngày xưa gọi là Cây Dừa. Cách gọi nầy là cách dân gian gọi theo tên cái Chợ có ở trong vùng. Chợ tại mỗi địa phương hồi ấy không nhóm họp hằng ngày như bây giờ. Chợ ngày xưa chia nhau nhóm theo phiên, nghĩa là chợ họp đúng ngày đã định trong tháng. Tên những chợ phiên phải luôn nằm trên đầu môi của cư dân. Phải biết và nhớ phiên chợ, hòng để đúng ngày mang sản phẩm đến đó bán, hoặc đến để sắm sửa những vật dụng, thức ăn cần thiết.

Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2017

TIẾNG CHIM KÊU BÊN BỜ SÔNG CÔN


Ở Bình Định nay còn lưu truyền lại câu ca xưa:

Củ lang Đồng Phó
Đỗ phộng Hà Nhung
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi lăn đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhơn còn bỏ huống chi cái gùi.

Tiếng chim kêu ở suối Từ Bi chỉ là sự than vãn tình đời đổi trắng thay đen. Hẳn ở nơi nào cũng có. Nhưng khi đã là phương dao thì câu ca thể hiện được địa phương tính, chỉ có ở đây mà không có ở nơi khác. Thử xét lại tính địa phương thông qua câu ca trên.

Thứ Bảy, 22 tháng 7, 2017

TIẾNG GỌI ĐÒ BÊN BỜ SÔNG CÔN


Bình Định có 3 con sông chính. Ở phía Bắc có sông Lại, thuộc huyện Bồng Sơn thời Hậu Lê, nay là các huyện Hoài Ân, An Lão, Hoài Nhơn. Rồi đến sông La Tinh, nó được xem là ranh giới thiên nhiên của 2 huyện Phù Mỹ và Phù Cát bây giờ, tức là của huyện Phù Ly cũ. Còn huyện Tuy Viễn ngày xưa ấy, gồm các huyện Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước, Vân Canh, Quy Nhơn của ngày hôm nay thì có sông Côn. Có thể tính thêm sông Hà Thanh, từ Cù Mông chảy qua Vân Canh, Tuy Phước, Quy Nhơn, cũng cùng sông Côn đổ nước ra cửa Thị Nại, được xem là một nhánh của lưu vực phía Nam sông Côn.

Sông Côn là sông lớn nhất của Bình Định. Ngày xưa gọi nó là sông Tuy Viễn. Thời Minh Mạng, khi huyện Tuy Viễn chia làm hai thành Tuy Viễn và Tuy Phước, huyện Phù Ly chia làm hai thành Phù Mỹ và Phù Cát, vì lưu vực sông bao trùm, chảy qua cả 3 huyện Phù Cát, Tuy Viễn, Tuy Phước nên thời bấy giờ nó mang tên trong sách sử là sông Tam Huyện. Từ Pháp thuộc đến nay, sông được gọi là sông Côn. Có lẽ do đọc theo âm Kon của người miền ngược, Kon là tên gọi thượng nguồn chính của sông phát tích tận vùng núi giáp với Kon Tum và Quảng Ngãi.