Bình
Định có 3 con sông chính. Ở phía Bắc có sông Lại, thuộc huyện Bồng Sơn thời Hậu
Lê, nay là các huyện Hoài Ân, An Lão, Hoài Nhơn. Rồi đến sông La Tinh, nó được
xem là ranh giới thiên nhiên của 2 huyện Phù Mỹ và Phù Cát bây giờ, tức là của
huyện Phù Ly cũ. Còn huyện Tuy Viễn ngày xưa ấy, gồm các huyện Vĩnh Thạnh, Tây
Sơn, An Nhơn, Tuy Phước, Vân Canh, Quy Nhơn của ngày hôm nay thì có sông Côn. Có
thể tính thêm sông Hà Thanh, từ Cù Mông chảy qua Vân Canh, Tuy Phước, Quy Nhơn,
cũng cùng sông Côn đổ nước ra cửa Thị Nại, được xem là một nhánh của lưu vực phía
Nam sông Côn.
Sông
Côn là sông lớn nhất của Bình Định. Ngày xưa gọi nó là sông Tuy Viễn. Thời Minh
Mạng, khi huyện Tuy Viễn chia làm hai thành Tuy Viễn và Tuy Phước, huyện Phù Ly
chia làm hai thành Phù Mỹ và Phù Cát, vì lưu vực sông bao trùm, chảy qua cả 3
huyện Phù Cát, Tuy Viễn, Tuy Phước nên thời bấy giờ nó mang tên trong sách sử
là sông Tam Huyện. Từ Pháp thuộc đến nay, sông được gọi là sông Côn. Có lẽ do đọc
theo âm Kon của người miền ngược, Kon
là tên gọi thượng nguồn chính của sông phát tích tận vùng núi giáp với Kon Tum
và Quảng Ngãi.
Từ
lâu ta đã quen với câu “Nhất cận thị, nhị
cận giang”. Ý nói việc thuận tiện sinh hoạt, đi lại, buôn bán… thứ nhất phải
ở gần chợ, thứ hai mới nói đến ở gần sông. Câu thơ của bà Huyện Thanh Quan đã gợi
lên hình ảnh cuộc sống giang biên, viễn phố của thuở xa xưa:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Con
sông là nguồn cung cấp món ăn thức uống. Việc giao thương của cư dân ngày xưa
phần nhiều cũng trông cậy vào thủy lộ. Con sông đã nuôi sống, đem lại sự sung
túc cho con người. Nhưng sông suối cũng góp phần nuôi dưỡng tâm hồn của con người,
đưa những tiếng tơ đến cho nhau, làm đẹp cho cuộc sống vốn đã lành ít dữ nhiều.
Cũng
giống như hầu hết các con sông của miền Trung, hơn một nửa chiều dài sông Côn nằm
trên vùng sơn cước, thành thử chính bản thân con sông đã tiềm tàng sự bí hiểm,
cuồng nộ của núi rừng. Mùa khô nó hiền hòa, róc rách, nước trong vắt thấy đáy,
đôi bên bờ cát trắng, trắng phau phau. Nhưng đến khi lũ lụt nước ngập trắng cả
cánh đồng, nói như Cristophoro Borri trong cuốn “Xứ Đàng Trong Năm
1621”, dưới góc nhìn của một người Ý đã từng đến sống ở cảng thị Nước Mặn,
Bình Định vào thời 1621, xứ Đàng Trong lúc ấy “như thể đất liền
và biển chỉ còn là một”…
Cũng
giống như hầu hết các con sông của đất nước, mỗi con sông đều mang trong mình mỗi
dấu tích của lịch sử, nhưng sông Côn là con “sông thánh” của thành Đồ Bàn, đô thị cổ của người Chiêm, nên sông
Côn còn vướng vất đâu đấy bóng hình, đậm nỗi u ẩn của một giống dân vong quốc.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông Nam chinh, Sử Ký Toàn Thư chép là khi hạ thành Đồ
Bàn, quân Việt đã chém hơn 4 vạn thủ cấp người Chiêm. Rồi vào những năm cuối thế
kỷ 18, Bình Định là chiến trường giành giật quyền lực, ngút khí ánh gươm đao giữa
nhà Nguyễn Gia Miêu và nhà Nguyễn Tây Sơn... Bao nhiêu đấy nước sông Côn tránh
sao khỏi cau mặt trước những tang thương !
Sông
đã vậy, nên người bên bờ sông Côn cũng chất chứa những nỗi niềm lúc thì u ẩn,
hiền hòa, lúc thì ngang tàng, cuồng nộ, lúc thì hoài vọng, trông ngóng đâu đâu…
Trước
những năm 1940, Chế Lan Viên đã thấy ở đây, trên sông vắng, lê mình trong bóng
tối, đó là những tượng Chàm lở lói đang rỉ rên than… Còn Hàn Mặc Tử thì nghe được
dòng sông bật lên câu hỏi về người Chị, người đã theo chồng bỏ cuộc chơi, trong độ tuổi mùa xuân chín, năm nay
chị ấy có còn
oằn lưng với gánh thóc, chân lịu địu
dọc bờ sông trắng nắng chang chang… Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử, hai người từ phương xa có duyên đến với đất
Bình Định, sông núi nơi đây đã từng góp phần đưa tiếng thơ của họ lên thi đàn
nước Việt.
Trong
nhóm thơ Bình Định Bàn Thành Tứ Hữu thời ấy, Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên,
hai con Long và Phụng đã nghe và thấy được tiếng nói của dòng sông nơi đây, nhưng
chính hai con Lân và Quy mới thốt lên tiếng nói của Côn giang. Yến Lan và Quách
Tấn, hai con linh vật còn lại của Bàn Thành Tứ Hữu đã thốt lên tiếng gọi
đò, tiếng gọi đò cháy cả lòng người từ thuở 1940 cho đến tận bây giờ.
Cũng
giống như Quách Tấn, thơ của Yến Lan có nhiều thể loại, nhưng chuyên sâu và đẹp
nhất là những bài thơ Đường luật. Một ai đấy đã nói về Tứ tuyệt Đường luật của
Yến Lan : “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến
Lan thuộc loại bố già. Một bố già hiền lành, không cân quắc, ngang tàng, vang động,
nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm”… Tuy
nhiên với bài thơ Bến My Lăng mà Yến Lan đã viết lúc tuổi chỉ đôi mươi, mười
sáu, người đọc thơ khi được nhắc đến Yến Lan là họ nhớ ngay đến Bến My Lăng, nhắc
đến Bến My Lăng là họ chỉ biết có Yến Lan.
BẾN MY LĂNG
Bến My Lăng nằm
không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái
chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi
vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió
lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến
trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu,
trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời
thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng
chỉ giải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài
trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến
My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu
áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò
như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất
lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi
bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò
như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả
ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng,
Ông lái buồn đợi
khách suốt bao trăng...
Yến Lan (1916 – 1998)
Người
lái đò làm nghề chở khách, ai mà chẳng mong có khách đến sang sông. Đợi khách,
nhưng ông để hồn vấn vương với trăng với mơ ước. Khách đến, Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả… Khách là một chàng kỵ mã, mình
nhúng đầy ánh trăng, vội vã đi nhưng chẳng chút nào tỏ ra kiêu bạt, chỉ hối hả
vì Sợ
trăng vàng rơi khuất lối chưa đi… Thế mà ông
lái đò vẫn say trăng, đầu gối sách. Ông chẳng màng tới tiếng gọi đò của khách. Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách / Gọi đò thôi run rẩy cả
ngành trăng… Vì sao!? Có
cái gì đó đã làm cho người đọc phải tự hỏi lấy mình.
Chẳng cần phải để tự Yến Lan giải
bày : “Hạnh phúc không phải lúc nào cũng phụ thuộc bên ngoài. Hạnh
phúc phải do bản thân mình tạo ra thì mới ý thức được nó đáng quý như thế nào
và mới biết tôn trọng, gìn giữ nó. Đừng bao giờ chờ đợi người khác mang hạnh
phúc đến cho mình. Không có điều ấy đâu, mà nếu có thì không bền vững bằng hạnh
phúc do chính sự lao động của mình xây nên”… Tự mỗi
người có thể đặt mình vào từng đối tượng một ở nơi đây. Là Bến My Lăng, là ánh
trăng, là ông lái đò, hay là chàng kỵ mã ! Là đối tượng nào, đứng ở góc nhìn
nào đi nữa người đọc cũng nghe được nỗi lòng của dòng sông biểu hiện với đời.
Tiếng gọi đò ở bến My Lăng là ước mơ của con người, phải do chính con người lựa
chọn quyết định số phận mình.
Còn
với Quách Tấn, tiếng gọi đò của ông lại đem đến cho người đời thi vị thiền :
TĨNH MỊCH
Bờ nghiêng lau lách
bước sương lồng
Trăng muộn màng canh
lánh mặt sông
Đời nửa khói mây chìm
bóng mộng
Gọi đò một tiếng lạnh
hư không
Quách Tấn (1910 – 1992)
Tiếng
gọi đò ở đây phảng phất tiếng kêu vang của Không Lộ thiền sư:
Hữu thì trực thướng
cô phong đính
Trường khiếu nhất
thanh hàn thái hư
Có khi
xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng
kêu vang lạnh cả trời
Thiên
nhiên và con người đã hòa nhập làm một, bởi một tiếng kêu vang của vị thiền sư
thời nhà Lý. Với Quách Tấn, kiếp sống nhân sinh chỉ là ảo mộng, trải cuộc đời
đã nửa bóng mây, thực và mộng quyện lẫn
vào nhau qua một tiếng gọi đò vang cả hư không.
“Quách Tấn là một phật
tử trọn vẹn, đã thu tóm tất cả những bài thơ mộng của Phật giáo vào trong cuộc
đời trầm lặng của mình. Quách Tấn đã đi ngược lại tất cả phong trào thời thượng”… Đó là ý
kiến của Phạm Công Thiện nói về bước đi về già của Quách Tấn theo đường đạo học.
Không chỉ vậy, Quách Tấn bấy lâu còn lầm lũi đi bằng những bước đi chắc nịch với
thơ luật Đường, thể loại thơ mà càng ngày người Việt càng ít sử dụng, mặc cho kẻ
dè bỉu, người khen. Đúng là cá tính của con linh Quy trong Bàn Thành Tứ Hữu.
Đến đây không thể không nhắc đến giới
văn chương ở Bình Định lúc ấy, có một nhóm yêu cả thơ của 4 người Hàn Mặc Tử, Yến
Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên. Nhóm yêu thơ nầy do Trần Thống, người Kiên Mỹ -
Bình Khê đại diện, đã đặt tên cho nhóm 4 người là Bàn Thành Tứ Hữu, mỗi người mang tên một con vật trong tứ linh Long,
Lân, Quy, Phụng. Mà lý thú thay, mỗi cái tên lại khá phù hợp với tính cách, sắc
thái thơ của từng người trong nhóm. Long là Hàn, Lân là Yến,
Quy là Quách, và Phụng là
Chế Lan Viên. Trong một lá thư của Quách Tấn
gởi cho Yến Lan năm 1988 đã xác nhận điều nầy và xác định luôn về định danh
« Trường thơ Bình Định » mà người đời đã ngộ nhận. Bức thư do
trưởng nữ của nhà thơ Yến Lan là Lâm Bích Thủy công bố:
“Nha Trang lập xuân 1988
Chú Yến Lan,
Cách đây 1 tuần tôi có gởi ra chú
1 bức thư nói về Trường thơ Bình Định. Chú nên cho ông Thu Hoài biết rằng không
có Trường thơ Bình Định, chỉ có Trường thơ loạn của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến
Lan mà thôi. Trường thơ này không thể thành Trường thơ Bình Định được. Bình Định
chỉ có một nhóm gồm 4 thành viên mà các bạn yêu thơ do Trần Thống ở Kiên Mỹ đại
diện, gọi là Bàn Thành Tứ Hữu. Nhóm thơ này gồm có: Hàn, Chế, Yến, Quách. Mỗi
người mang tên một con vật trong bộ Tứ Linh. Tôi đã viết một bài nói về nhóm
thơ Bình Định vừa vui vừa nói lên được phong độ và sắc thái của thơ Tiền chiến
Bình Định - Đó là từ 1930 đến 1945, từ 1945 đến 1985 trừ Tử và Khê đã mất, kẻ
còn lại đều hoạt động đều đặn”.
Quách Tấn đã cùng Yến Lan khẳng định
“Bàn thành Tứ Hữu” là một nhóm thơ. Ở đó, sự gắn kết với nhau bằng
tình thi ca, tình bằng hữu, hơn là một trường phái sáng tác.
Hai
con Lân và Quy là hai thành viên sống lâu nhất của nhóm (Hàn Mặc Tử mất năm
1940, Chế Lan Viên mất năm 1989). Yến Lan và Quách Tấn sinh trưởng ở chính đất
Bình Định. Họ đã có cùng tiếng gọi đò, thốt ra tiếng lòng của một dòng sông nơi
họ chôn nhau cắt rốn. Tiếng gọi đò bên bờ sông Côn của mỗi người có khác, nhưng
có bổ sung cho nhau, thể hiện đầy đủ sự bí hiểm của núi sông Bình Định. Và giải
bày sự việc người bên bờ sông Côn luôn chất chứa những nỗi niềm lúc thì u ẩn,
hiền hòa, nhưng lúc thì ngang tàng, cuồng nộ, lúc thì hoài vọng, trông ngóng
đâu đâu… như chính sắc thái của Côn giang.
Trường Nghị
Mới nghe tin Thầy Tử Lương mất.
Trả lờiXóa