Phan Trường Nghị
Tây Khê thảo thụ lưu kỳ tích
Nam Quốc sơn hà ký võ công
Đó là câu đối chữ hán đặt 2 bên cửa Điện thờ
Tây Sơn Tam Kiệt ngày xưa ở thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, quận Bình Khê, bây giờ
thuộc Thị trấn Phú Phong của huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Tây Sơn Điện được
xây dựng để thờ ba vua, ba anh em Nhà Tây Sơn - Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, Hoàng
Đế Quang Trung Nguyễn Huệ và Đông Định Vương Nguyễn Lữ. Điện thờ ngày ấy khởi
công trùng tu năm 1959, được khánh thành vào năm 1960.
Gọi là trùng tu, không phải khởi phát xây dựng,
vì chỉ là sửa sang cho bề thế, làm mới lại ngôi Miếu đã và đang thờ ba Ngài Tây
Sơn. Ngôi miếu nhỏ nằm bên giếng nước xưa, dưới tàng cây me cổ thụ.
Ngày trước, ngôi miếu đã được dân sở tại lập
nên trên nền của đình làng Kiên Mỹ cũ. Ngôi đình vốn đã bị phá sập thời tiêu thổ
kháng chiến vườn không nhà trống, đã mất đi hình ảnh từ lâu nức tiếng trong
vùng “Hạc chợ
Đình, Cột đình Kiên Mỹ”. Mà đình
làng có hàng cột to đùng đó, ngay từ thuở xưa, tiếng là xây nên để thờ Thành
hoàng, nhưng bí mật bên trong lại là cúng Ba vua. Ba vua Tây Sơn, những người
áo vải xuất thân tại nơi đây đã làm nên kỳ tích xóa tan cung Vua phủ Chúa, đã
làm nên những chiến công uy vũ chấn động lân bang. Ở phía nam, đánh vỡ mật quân
Xiêm La đang rần rật tại Rạch Gầm Kênh Xoài Mút. Còn phía Bắc, quân Mãn Thanh
đang giương oai diệu võ ở Thăng Long, bị đánh đuổi chạy về đến biên giới Lạng
Sơn mà vẫn còn hồn phi phách tán.
Đọc lại câu đối hai bên cửa Điện Tây Sơn ngày
ấy :
Tây Khê thảo thụ lưu kỳ tích
Nam Quốc sơn hà ký võ công
Người Bình Khê - Tây Sơn thuở bấy giờ hiểu
câu đối đó theo nghĩa :
Cây cỏ đất Tây Sơn còn lưu lại chuyện lạ thường
Núi sông nước Việt Nam đã chép dày công uy vũ
Điều trước tiên nhận thấy là từ câu đối, hiển
hiện ra sự khiêm tốn của Điện thờ. Việc làm của Điện thờ chỉ là kế tục sự nghiệp
người dân Tây Sơn nhang khói cho một triều đại. Những gì mà triều đại đó làm được,
những gốc cây ngọn cỏ của suối khe nơi đây đều biết, đều nhìn nhận đó là những
kỳ tích, những việc làm lạ thường…, hết thảy những con sông, ngọn núi của đất nước
đều thấy, đều nhìn nhận đó là những công đức, những chiến công uy vũ của dân tộc
cần phải chép ghi.
Nhà Tây Sơn đã làm nên những kỳ tích, những
việc làm lạ thường (!?). Chỉ cần đọc lại những gì mà các giáo sĩ Tây phương đã
ghi chép về nghĩa binh Tây Sơn :
“Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người
mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của.
Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu
đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp
lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ
mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng
nghèo khổ...”
Người dân bấy lâu sống dưới can qua, dưới ách
thống trị của cung Vua lẫn phủ Chúa. Chiến cuộc tranh giành quyền lực giữa hai
họ Trịnh Nguyễn đã đem đến bao thống khổ cho trăm họ. Trong khi đó quan lại thì
lạm dụng quyền hành, mua quan bán tước, bòn công khố thu vào túi riêng… Nghĩa
binh Tây Sơn xuất hiện với tuyên ngôn lấy của người giàu đem cho dân nghèo,
lòng xa gần ai mà chẳng theo.
Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt thời bấy giờ phía
trước sân có Bi đình (nhà bia), nơi đặt tượng bán thân của Hoàng đế Quang Trung
và tấm bia đá khắc bài ký ghi lại thân thế và sự nghiệp của ba anh em Nhà Tây
Sơn. Ba anh em Nhà Tây Sơn, riêng Đức Vũ Hoàng Nguyễn Huệ, theo bài ký thì Ngài
thân bố y tay
trường kiếm, nhưng lại là người biết sùng thượng kính văn, quý trọng đạo lý. Kẻ cao tài đạt đức đều được Ngài tôn kính vào bậc thầy. Vì thế
nên Văn võ
dưới cờ đều là những trang khai quốc tuấn kiệt.
Dựng
nên chính nghĩa thu phục người dân tay lấm chân bùn đứng dưới cờ vốn đã không
dễ, việc thu phục người điều binh khiển tướng, kẻ xông pha trận mạc cùng ngồi
chung dưới trướng xem ra càng lại khó hơn. Nhưng vốn là người gồm cả khí tượng
họ Hạng họ Lưu (Hạng Võ và Lưu Bang), Đức Vũ Hoàng Nguyễn Huệ biết trọng hiền đãi sĩ nên ngay cả Cuồng Ẩn
núi Thiên Nhẫn là Lạp Phong Cư Sĩ Nguyễn Thiếp, đầu nón cời tay cán cuốc
nhưng bụng đầy kinh luân cũng chịu ra mà giúp Vũ Hoàng an bang tế thế.
Chuyện
Đức Vũ Hoàng Nguyễn Huệ mời được người có tên hiệu Cuồng Ẩn, Điên Ẩn ra giúp việc, ly kỳ chẳng kém chuyện thời Tam
quốc Lưu Bị ba lần tìm đến lều tranh cầu gặp Khổng Minh Gia Cát Lượng. Khoảng cuối
năm 1787, Vũ Hoàng 3 lần sai người dâng thư mời Nguyễn Thiếp, nhưng cả 3 lần
Nguyễn Thiếp đều kiếm cớ chối từ. Ngày Vũ Hoàng tiến binh ra Bắc trừ Vũ Văn
Nhậm, đến Nghệ An cho rước Nguyễn Thiếp đến hành dinh. Diện kiến nhau, biết
được nhau, nhưng ẩn sĩ núi Thiên Nhẫn vẫn một mực thoái thác việc ra giúp Nhà
Tây Sơn. Đến khi Lê Chiêu Thống rước quân Tôn Sĩ Nghị vào thành Thăng Long, vì có
cùng nhau nỗi thống
tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân, và
trước sự thành tâm của Vũ Hoàng, Nguyễn Thiếp bấy giờ mới chịu hợp tác, cùng ngồi
bàn chuyện thiên hạ với Vũ Hoàng. Vũ Hoàng Nguyễn Huệ tôn xưng Lạp Phong Cư Sĩ
là La Sơn Phu Tử, sau cho lập Sùng Chính Viện để Nguyễn Thiếp tổ chức thực thi những
chủ trương về văn hóa, giáo dục.
Với hùng tâm định bá đồ vương, với thành tâm
đãi sĩ, trọng hiền tài, Đức Vũ Hoàng Nguyễn Huệ đã thu nạp được dưới cờ toàn những
kỳ sĩ, những chiến tướng kiêu dũng. Cùng với tài dụng binh như thần, mỗi lần
Ngài xuất quân là trăm trận trăm thắng. Công đức uy vũ của Ngài, theo như người
dân Bình Khê ngày ấy đã ghi nhận qua bài ký khắc trên bia :
Riêng Vũ Hoàng
Bốn lần bạt thành Gia Ðịnh, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng
chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Võ
Thang.
Lại hai phen thảo quân xâm lược :
Năm Giáp Thìn, đánh tan 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu
vong thỉnh tới.
Năm Kỷ Dậu, quét sạch 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất
lân rước về.
Những chiến công chấn động là vậy. Còn về
công đức uy vũ, ngoài việc xóa tan cung vua phủ chúa, Nhà Tây Sơn còn có công đức
vỗ về, trị bình. Đánh đuổi quân Mãn Thanh về nước xong, hàng loạt các chiếu chỉ
được ban ra cầu thu dụng người tài (Chiếu Cầu Hiền), tổ chức việc dạy dỗ học
hành (Chiếu Lập Học), khuyến khích gia tăng sản xuất (Chiếu Khuyến Nông)… Bãi bỏ
chữ Hán, dùng chữ Nôm là chữ của người Việt trong các chiếu thư cơ quan hành
chánh. Chỉ thị những loại “sinh đồ ba quan” (loại học hành chữ nghĩa chỉ đáng 3
quan tiền) trả xuống hạng thường dân, gánh vác tạp dịch cùng dân chứ không cho
ăn trước ngồi trên… Vì thế những “nho sĩ Bắc Hà”, không riêng gì La Sơn Phu Tử
Nguyễn Thiếp, còn có Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhiệm, Vũ Huy Tấn… đều ra phụ giúp Nhà
Tây Sơn ổn định đất nước. Đó là những người có công trạng không nhỏ trong việc
đánh thắng quân Thanh cũng như sau nầy bang giao với triều đình nhà Mãn.
Bài ký trên bia đá ở trước Điện thờ ngày ấy
ghi rõ việc trị bình của Nhà Tây Sơn :
Ðắp quốc cơ theo tôn chỉ phú cường.
Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc.
Dùng chữ Nôm làm quốc gia văn tự.
Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.
Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong, Vũ Hoàng
luyện tướng nuôi binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.
Nghĩa binh Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa năm
1771, đến năm 1802 thì bại vong dưới tay Nguyễn Ánh - Gia Long. Nhà Tây Sơn quá
ngắn ngủi, nhưng những gì Nhà Tây Sơn làm được đã để lại nhiều tưởng tiếc trong
lòng người. Trong khi đó chốn cung đình triều Nguyễn vẫn còn đầy thù hiềm với
Nhà Tây Sơn. Năm 1831, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12, triều đình vẫn còn truy tìm,
bắt hậu duệ của Nguyễn Nhạc là chú cháu Văn Đức, Văn Lương, Văn Đẩu đem về Phú
Xuân xử chém. Dân quanh vùng từng có mối quan hệ với Nhà Tây Sơn, có người phải
cho đục bỏ, thay tên bia mộ người thân để tránh con cháu bị vạ lây. Nhưng khoảng
thời gian nầy dân sở tại lại dựng nên ngôi đình bí mật thờ cúng Ba Vua. Thế mới
thấy Nhà Tây Sơn vẫn còn chiếm ngự một chỗ trong lòng người nơi đây.
Xuân thu nhị kỳ, đình làng Kiên Mỹ cúng Ba
Vua Tây Sơn. Trong đó, ngày rằm tháng 11 bên ngoài gọi là lễ thường tân (cúng
cơm mới), nhưng bên trong là ngày hiệp kỵ Ba Vua Tây Sơn, chánh bái miệng chỉ
khấn thầm chứ không đọc văn. Mật cáo cúng Ba vua, phụng tế của đời nầy khẩu
truyền lại cho phụng tế đời sau. Còn cáo sắc Thành hoàng, từ lâu đã đem qua giấu
ở Miếu Vĩnh An xóm Hưng Trung gần đó. Người dân Tây Sơn hằng năm âm thầm thờ
cúng Ba Vua dưới không khí hằn thù của triều đình. Mối hằn thù dai dẳng. Đến nỗi
vào thời Cần Vương năm 1887, khi xử chém Nguyên soái Mai Xuân Thưởng, cũng là
người cùng quê Phú Lạc với ba anh em nhà Tây Sơn, triều đình hài tội Mai Xuân
Thưởng là “Dương vị Hàm Nghi khởi nghĩa, Âm vị Huệ Nhạc báo thù” (Bên ngoài nói
là vì Hàm Nghi mà ứng nghĩa, chứ thực chất bên trong là khởi binh báo thù cho
Nhạc Huệ).
Việc lập đình cho làng nhưng dùng để nhang
khói cho Nhà Tây Sơn dưới sự xoi mói, hiềm thù dai dẳng của triều đình, phải
nói là gồng mình vượt qua trăm nỗi gian nan. Việc làm đó của người dân ở đây,
chức sắc sở tại của vương triều Nguyễn không phải là không biết. Chỉ có điều họ
không muốn gây thêm lớn chuyện, không dám động đến oai linh vị Hoàng đế lừng
danh. Người ở nơi xa như cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tận ngoài Hà Nội cũng nghe
nói tới đình làng Kiên Mỹ là nơi thờ phụng ba anh em Nhà Tây Sơn.
Trong chuyến đi vào Nam lần thứ 2, ngày trên
đường về Bắc cụ đã tìm tới Bình Khê, nơi phát tích của Nhà Tây Sơn. Theo nguyệt
san Bình Định 1995, số 7, Tản Đà kể lại hành trình qua từng ngày của ông trong
tập “Giấc Mộng Lớn” :
Buổi sáng ngày mồng 9
tháng 2 (quy
chiếu ra dương lịch là 29.02.1928), đi chơi Chinh Tường (đúng ra là Trinh Tường), là xem mả phát
tích nhà Tây Sơn cách đây ít nhiều cây số, hiện nay quan quách đều đã bị quật bỏ,
mà con bò ngó tới cũng phải chết. Các tổng lý làng gần đi qua không xuống ngựa,
tính mạng thiệt thòi. Lạ thay...
Tổng lý các làng lân cận đi qua đây mà không
xuống ngựa, sẽ nguy đến tính mệnh, xem vậy oai linh của Nhà Tây Sơn dẫy đầy những
huyền thoại. Huyền thoại được trời ban ấn kiếm khi khởi nghĩa, huyền thoại quân
đi thần tốc như thiên binh từ trên trời rơi xuống, huyền thoại linh khí con ngựa
trắng của Hoàng đế Quang Trung hằng đêm sải vó quanh đình làng Kiên Mỹ…
Trong chuyến đi ghé đất Bình Khê nầy, nhà thơ
núi Tản sông Đà, chủ bút của An Nam tạp chí còn thăm viếng đình làng Kiên Mỹ.
Người dân nơi đây kể rằng khi cụ xin vào dâng hương Ba Vua, lý trưởng của làng
thời bấy giờ là Mạc Viên (Xã Siềng), thấy cụ là người lạ, có thể sợ rằng người
lạ đến với dị ý sẽ nguy cho làng, nên đã không cho mở cửa đình. Cụ Khắc Hiếu
đành phải bày nhang đèn trước thềm mà khấn lạy. Chuyện bay đến tai chính quyền
sở tại, khi ra viếng lăng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ngoài Bình Định, thị xã An
Nhơn bây giờ, cụ Tản Đà thấy có người theo dõi mình :
“Dọc đường trở ra có một
người mặt áo the, đội nón long, cưỡi ngựa, khi đi trước khi đi sau. Lại một người
nữa đi xe đạp, mặc áo ngắn vải vàng cũng đi trước đi sau như vậy”.
Sau đó, Tản Đà bị quan Công sứ ở Quy Nhơn gọi
lên tòa sứ, hỏi:
“Ông đi chơi đó chỉ là xem
cho biết hay có ý gì không?”
Tản Đà trả lời :
“Bẩm, chúng tôi là người
làm báo, nhân đi qua đây muốn xem cho biết, cũng để hoặc có đăng vào tạp chí về
sau”.
Tỉnh đường Bình Định buộc nhà thơ núi Tản
sông Đà phải trở về Hà Nội ngay tức khắc, nhưng trong lòng của người ở tận
ngoài Bắc xa xôi ấy cũng thầm tưởng tiếc, thầm công nhận triều đại Tây Sơn
trong bức dư đồ của mình. Tản Đà du Bắc du Nam để bồi đắp bức dư đồ, đi để tìm
sức sống cho tờ An Nam tạp chí, không chỉ đi để tiêu sái Thú Ăn Chơi, không chỉ đến đất
Bình Khê chỉ để xem “Tuồng Bình Định, Rạp Phú Phong”.
Ngày nay Điện Thờ Tây Sơn đã được tu bổ lại,
khang trang hơn, bề thế hơn. Nhưng có lẽ người đến Điện Tây Sơn bây giờ, phần
nhiều chỉ để cúng bái theo kiểu tâm linh, cầu xin…, ít ai ngưỡng vọng Nhà Tây
Sơn theo kiểu như nhà thơ núi Tản sông Đà. Cụ Tản Đà, người đã thấy được chuyện
lạ kỳ khó ai làm được (kỳ tích), thấy
được công đức oai võ (võ công) của
Nhà Tây Sơn… Tây
Khê thảo thụ lưu kỳ tích - Nam Quốc sơn hà ký võ công…
Xuân Bính Thân
- 2016
Phan Trường Nghị
Khóa 4 QuangTrung
BinhKhe
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét