Như đã nói trên, một bộ bài chòi có 27 con bài. Mỗi tên con bài Hiệu phải dùng một câu thai và nội dung câu thai phải luôn luôn thay đổi khi gặp lại con bài cũ.
1.- Câu Thai Các Con Bài Trong Kho VĂN:
Nhất Gối, nhưng thường gọi là Chín Gối:
Ðêm nằm gối gấm không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
Nhì Bánh:
Bánh bèo trục lúc không tai
Bánh in to hột, dện hoài đổ ra.
Ba Bụng:
Gió sao gió mát sau lưng
Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này.
Tứ Tượng:
Ai đi ngoài ngõ ào ào
Hay là ông tượng đạp rào ổng vô?
Ngũ Ruột:
Bởi vì chai rượu Bạch Liên
Mai dong điềm chỉ tới miền nhà em
Cũng vì chai rượu gói nem
Mà cha mẹ đã gả em đi rồi
Còn gì than thở anh ơi
Chỉ thêm đau ruột, em có chồng rồi, biết sao!
Sáu Xướng:
Hồi nào đói rách có qua
Bây giờ nên xưởng nên nhà lại lơ
Bảy Liễu:
Biết đâu mà đợi mà chờ
Tấm thân liễu yếu đào tơ gió lồng
Tám Miểng:
Văn chương đựng không đầy lá mít
Võ thì đá khổng bể nổi miểng sành
Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi
Bảng đề không biết chữ chi
Maì nghiên múa bút có khi hết ngày
Chín Cu:
Sự đời có bốn cái ngu
Mai dong, hứng nợ, rập cu, cầm chầu.
2.- Câu Thai Các Con Bài Trong Kho Vạn:
Nhất Trò:
Không ngon cũng bánh lá gai
Dù anh có dại cũng trai học trò
Nhì Bí:
Bình Ðịnh có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh
Em về Bình Ðịnh cùng anh
Ðược ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
Tam Quăng:
Anh đang viết liễn trong đình
Nghe em, chồng hỏi, giật mình quăng nghiên
Tứ Móc:
Lòng thương chị bán thịt heo
Hai vai gánh nặng còn đèo móc cân
Ngũ Trợt:
Bớ chị em ơi! đi chợ
Chợ nào bằng chợ Gò Chàm
Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo
Còn thêm bánh đúc bánh xèo
Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
Những con cá chép cá thu
Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán thịt phay
Nem tươi chả lụa
Rượu trà no say
Ngó ra ngoài chợ
Vẫn bán tranh cày
Roi mây, lưỡi cuốc
Nẫu bày nghinh ngang
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán sàn sàn
Khoai lang, bắp đỗ
Ðục, chàng, kéo, dao...
Xem ra chẳng sót hàng nào
Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào cũng vô ...
Lại còn những món bánh khô
Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay
Những còn hàng giép hàng giày
Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên
Lại còn những món nhiều tiền
Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm...
Song thằng An Thái
Dừa trái Tam Quan
Ðường cát Dương An
Ðĩa bàn nội phủ
Kể đủ hàng hoa...
Cà dê, cà dĩa, cà chình
Ớt ngà, ớt bị, ớt sừng, ớt cay
Rau răm, rau hung
Bầu thúng, cà tây
Mua bán bạc cây
Những người hàng xén
Mấy chú rón rén
Ăn cắp thiệt lanh
Mấy chú gian manh
Là anh trùm chợ
Buôn mọi bán rợ
Mấy chú An Khê
Ở trển đem về
Xấp trần nài rể
Dễ mua dễ bán
Bánh tráng, kẹo cà
Xoa xoa, đậu hũ
Mè xửng , bánh canh
Dạo hết xung quanh
Hành ngò, cúc cải
Dây dừa, dầu rái
Kẹo đỗ, kẹo dừa
Mấy chị ngủ trưa
Nẫu mua trợt lớt
Lục Trạng:
Bậu khoe giỏi, sao chẳng chịu đi thi
Cú ăn xó bếp, ngủ thì chuồng trâu
Bậu ơi tôi chẳng ưng đâu
Trạng gì như thế có hầu cũng uổng công
Thất Vung:
Ngó lên hòn núi chóp vung
Thấy bảy cô gái cùng chung một nhà
Bát Bồng:
Chầu rày đã có trăng non
Ðể tôi lên xuống có con em bồng!
Cửu Chùa:
Con vua thì được làm vua
Con sãi ở chùa phải quét lá đa
3.- Câu Thai Các Con Bài Trong Pho SÁCH:
Nhứt Nọc:
Ðò em đưa rước bộ hành
Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề
Trải qua bãi hạc, gành nghê
Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô
Tiếng ai văng vẳng gọi đò
Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người
Nhì Nghèo:
Dầu mà hai ngả phân ly
Mình ơi, hãy nhớ hồi khi còn nghèo
Ba Gà:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Tứ Sách:
Gió đưa trăng thì trăng đưa gió
Quạt nọ đưa đèn, đèn có đưa ai
Trăm năm đá nát vàng phai
Ðá nát mặc đá, vàng phai mặc vàng
Trông cho én nhạn một long
Lồng đèn thiếp xách, mâm tơ hồng chàng bưng.
Ngũ Dụm:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây dụm lại thành hòn núi cao
Sáu Hường:
Nghĩ duyên lận đận mà buồn
Thương nhau vàng võ, má hường kém tươi
Bảy Thưa:
Ðừng ham nón tốt dột mưa
Ðừng ham người tốt mã mà thưa chuyện nhà
Tám Dây:
Ví dầu cha đánh mẹ treo
Ðứt dây té xuống cũng theo tới cùng
Cửu Ðiều:
Huỳnh Kim có bến Tân An
Có lầu Thông Nhẫn lập đàn bán buôn
Trước kia đường vắng hơn truông
Bây giờ trong bán ngoài buôn đầy tràn
Trong nhà dệt nhiễu thêu hang
Trong sân thợ nhuộm, ngoài đàng xe hơi
Khen cho ông Nhẫn đủ đời
Lụa hàng cấp giá nơi nơi cũng điều.
4.- Câu Thai Các Con Bài Trong Cặp YÊU:
Ông Ầm:
Vai mang bị bạc kè kè
Nói bậy nói bạ nẫu nghe ầm ầm
Thái Tử:
Thuyền dời nhưng dạ chẳng dời
Khăng khăng một lời: quân tử nhất ngôn.
Bạch Huê:
Cũng vì duyên nợ ba sinh
Sáng trăng câu hát huê tình mà theo
4. CẢI TIẾN VÀ BIẾN THỂ CỦA BÀI CHÒI
Hội bài chòi là một trò chơi dân gian, mang tính văn nghệ quần chúng. Tiền thân của bài chòi là sự liên lạc nhau giữa các chòi canh trên nương rẫy. Và bài chòi được hình thành và hoàn chỉnh ở đồng bằng. Thể thức chơi vẫn giữ nét độc đáo nguyên thủy, ngồi trên những chiếc chòi, nên gọi là bài chòi truyền thống.
Bài chòi truyền thống cũng chia làm hai giai đoạn: Hiệu hô những câu ca dao ngắn, nội dung không liên quan gì đến con bài, miễn sao có chữ đồng âm với tên con bài là được; thời kỳ này gọi là bài chòi tạp. Dần dần có xen nhiều những câu thai do nghệ nhân đặt ra hoặc do Hiệu ứng chế có nội dung ăn khớp với tên con bài, như câu Nhứt Nọc dưới đây; thời kỳ này gọi là bài chòi câu.
Tay cầm sào chống lái
Mắt liếc bãi lều tranh
Ở đây đưa rước bộ hành
Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề
Trải qua bãi bạc gành nghê
Tứ mùa chèo chống đôi bề sóng xao
Thú vui ngang dọc một sào
Ngồi trong tịnh viện kẻ gào người kêu
Tiếng ai văng vẳng kêu đò
Mau mau nhổ nọc chèo qua rước người.
Sau này vì sự giản tiện, có vài nơi phá lệ cất chòi vẫn dùng 9 cái ghế thay cho 9 chiếc chòi và thể thức vẫn như cũ. Khuyết điểm của bài chòi ghế là không thể thay thế hết được chức năng của chòi nên kém phần sôi nổi, giảm sự hào hứng của người chơi bài và cả người xem.
Từ hình thức bài chòi ghế, những năm đầu thế kỷ 20, có một số nghệ nhân mạnh dạn tách khỏi mô hình truyền thống để kiến tạo một lối mới gọi là bài chòi chiếu. Ðặc tính của bài chòi này không phụ thuộc vào thời vụ. Nghĩa là tổ chức lúc nào cũng được, không cần phải đợi dịp Tết Nguyên Ðán.
Bài chòi chiếu cũng không có chòi. Sân khấu vẫn còn trệt nhưng đã được giới hạn trong phạm vi chiếu rải. Bài chòi chiếu cũng không còn độc diễn của Hiệu mà đã phân vai nhân vật (2 hay 3 diễn viên) nhưng còn đơn giản, chủ yếu là giọng ca mùi mẫn diễn những lớp trong các truyện tuồng như Lưu Kim Ðính, Phàn Lê Huê, Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên...
Tuy vậy, sự trình diễn chỉ để giải trí và nêu tên con bài ở những câu thơ cuối lớp, chứ chưa đủ trình độ kết cấu nghệ thuật để trở thành mục diễn, nên người ta gọi là bài chòi lớp.
Một biến cố lớn trong bộ môn bài chòi là sự ra đời của bài chòi truyện. Vào giữa năm 1933, hai nghệ sĩ sáng lập gồm Bốn Trang (tức Phan Ðình Lang người xã Nhơn Thành, An Nhơn) và Ba Nhỏ (tức Ba Huợt người xã Cát Sơn, Phù Cát) cùng với sự cộng tác của Tư Liên (Ðỗ Liên), Năm Oanh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ) và nhiều nghệ nhân khác; lần đầu tiên trình diễn bài chòi truyện trên sân khấu sàn gỗ tại chợ An Lương xã Mỹ Chánh huyện Phù Mỹ.
Ðây là lần thử nghiệm, không tránh khỏi nhiều trở ngại, nhưng nói chung vẫn gặt hái những kết quả khích lệ. Bài chòi truyện hoàn toàn dứt bỏ thể thức chơi bài truyền thống, mạnh dạn bước lên sàn sân khầu có đầy đủ phông màn. Nghệ sĩ được chọn sắm vai thích hợp với nhân vật, có hóa trang, có sự nhập vai, diễn xuất các động tác theo qui luật ước lệ và cách điệu. Làn điệu cũng phát triển để phù hợp tình cảm của mỗi nhân vật. Ngoài điệu cố hữu là hô bài chòi và điệu hát chủ đạo là Xuân Nữ (có sức gợi cảm), còn có điệu cổ bản, nói lối, Hồ quảng, xàng xê, hát Nam, hát Khách, tẩu mã, lý thượng... Về âm nhạc ngoài đờn cò, kèn, sanh, trống còn có đàn nguyệt để tạo âm non âm già phù hợp với làn điệu mới. Về trình diễn, diễn viên có thể cương vài chi tiết nhưng không được đi quá xa hoặc phản lại đề tài. Về y phục và đạo cụ cần sắm đủ các loại để trang bị thích hợp từng nhân vật. Về ánh sáng có trụ đèn lồng thắp dầu, về sau có đèn măng sông.
Dịp Tết Giáp Tuất (1934) gánh bài chòi của ông Bốn Trang và Ba Nhỏ kiện toàn đội ngũ lập thành đoàn hát Tân Xuân đến lưu diễn ở thị trấn Gò Bồi (phủ Tuy Phước). Nhờ rút tỉa kinh nghiệm, lần này được khán giả đón nhận nồng nhiệt và bán vé thu được một số tiền lớn.
MỘT THỜI CỰC THỊNH
Ðánh dấu sự thành công của gánh hát Tân Xuân, nhiều nghệ nhân đầu tư vào việc lập gánh hát bài chòi chuyên nghiệp. Ðoàn lớn thì diễn tuồng truyện trên sân khấu hiện đại, đoàn cỡ trung thì diễn lớp trên sân khấu trệt trải chiếu, đoàn nhỏ thì hô bài theo lối truyền thống trên sân đất.
Từ năm 1933 đến năm 1945 tỉnh Bình Ðịnh có trên 10 gánh hát bài chòi nổi tiếng. Các đoàn hát như Tân Xuân của Bốn Trang, Long Vân Bang của Tư Miệt, Ý Chung của Phan Ðình Chi chuyên lưu diễn ở khắp các tỉnh từ Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết đến Di Linh (Lâm Ðồng). Các đoàn khác như gánh Năm Oanh (An Lương, Phù Mỹ), gánh Ông Dần (Hoài Nhơn), Chính Oanh (Kiến Hàng, An Nhơn), Sáu Sơn (Nhạn Tháp, An Nhơn), Ông Lợi (Phước Nghĩa, Tuy Phước), gánh Ðồng Ấu của Ðinh Thảo và Bốn Dân...
Ðội ngũ diễn viên của bộ môn bài chòi cũng khá hùng hậu, không những nhiều kép nổi tiếng như Ba Huợt, Ba Sinh, Bốn Que (tức Bốn Trang), Tư Liên, Tư Miệt, Năm Oanh, Mười Vạn, Kim Kích... mà còn có nhiều khuôn mặt nữ tài hoa "một thời vang bóng" như đào Nhảy và Dần (Hoài Nhơn), đào Trang và Ðài (An Thái, An Nhơn), đào Sanh và Ðồng (Phước Sơn, Tuy Phước), đào Bình (Phú Tài, Tuy Phước), đào Chung và Liệu (Qui Nhơn), đào Giàu, Ba Danh...
Lớp diễn viên mầm non có Văn Bá, Ðinh Thị Bích Hải, Nguyễn Thị Hường, Lê Quí, Ðinh Thái Sơn... đều phát triển tài năng trước tuổi.
Về âm nhạc cũng có những nghệ sĩ xuất thần như Tám Kèn (tức Nguyễn Hoài Ân), Văn Bá Anh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Lưu Hạnh (An Nhơn), Nguyễn Mới, Sáu Hoạch...
Về kịch bản xuất hiện nhiều tác giả soạn bài chòi truyện như Trương Ân, Năm Oanh, Sáu Cóc với những vở ca kịch nổi tiếng như Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tam Hạ Nam Ðường, Lưu Bình Dương Lễ, Quan Công Phục Huê Dung, Lý Ân Lang Châu...
Trong thời kỳ này ba thể hình bài chòi đều thịnh hành và không cạnh tranh lấn áp nhau. Bài chòi truyện có một chỗ đứng ở sân khấu phông màn, có rạp che chắn, lưu diễn ở các thị tứ, người xem phải mua vé. Bài chòi lớp tìm đất sống trên sân khấu chiếu khắp các làng mạc miền quê. Bài chòi truyền thống vẫn nở rộ mỗi dịp xuân về.
THÚ TIÊU KHIỂN TRONG BÀI CHÒI
Bản chất bài chòi là trò chơi bài của dân gian xen với ca múa do tài anh Hiệu ứng chế đồng thời có sự cộng tác, đối thoại một cách tự nhiên giữa người hô và người tham gia cuộc chơi.
Nếu đưa bài chòi lên sân khấu có phông màn tức là xóa bỏ cuộc chơi, bài chòi truyện trở nên hụt hẫng, cần bù đắp vào các điều kiện sau đây mới tạo được không khí hấp dẫn: Sự tích truyện tuy có gay cấn nhưng có hậu mới thỏa mãn người xem. Kịch bản cần cải tiến mới tránh khỏi sự tẻ nhạt nhưng không làm đứt mạch truyền thống, trong đó chất liệu bài chòi phải chiếm tỷ lệ cao, nếu không sẽ bị đồng hóa với các môn nghệ thuật khác, làm thất vọng khán giả.
Thời ấy có thành ngữ "gánh hát xà bần" để chỉ trích những gánh bài chòi diễn trò hổ lốn đã đưa hát bội, cải lương, chèo, Hồ quảng chen vào quá nửa. Ngoài ra bài chòi truyện cần có đạo diễn thành thạo, tài diễn xuất của nhân vật và giọng ca đúng điệu. Sau nữa, cách trang trí, lối trang phục và sự điều chỉnh ánh sáng rất cần thiết, làm nổi bật cảnh sắc trên sân khấu. Nhưng bài chòi truyền thống, không cần những điều kiện trên, chỉ cần một anh Hiệu tài hoa là đủ rối và tự nó đã đi vào lòng dân tộc nên có sức lôi cuốn :
" Rủ nhau đi đánh bài chòi,
Để cho con khóc đến lòi rún ra"
(Ca dao).
Bởi thế, những người khắt khe lại cho rằng: chơi bài chòi là đánh bạc vì sử dụng bộ bài tới, có cáp tiền và có sự ăn thua nên mới hấp dẫn như vậy.
Thưa không, chơi bài chòi không mang tính cách sát phạt của sòng bài, những người có máu cờ bạc không lấy gì làm thích thú ở cuộc chơi này. Trong lịch sử bài chòi, chưa có ai khuynh gia bại sản vì đam mê trò chơi này, và cũng chưa thấy ai giàu có vì trúng mánh bài chòi.
Ở bài chòi, ngoài việc thử thời vận, bói hên xui vào dịp đâu năm, người ta còn tìm đến bài chòi để mua vui qua giọng hô, tài ứng đối và lối diễn trò của Hiệu. Vì vậy, đánh bài chòi là một thú tiêu khiển, một hình thức vui chơi nhẹ nhàng, tao nhã, ít tốn kém. Một hội chơi dân gian đã trở thành tập tục vào dịp đầu xuân, mang tính chất khuyến khích sáng tác và duy trì thi ca bình dân.
Ở các tỉnh miền nam Trung phần, nhất là Bình Ðịnh ngày nay còn lưu lại rất nhiều ca dao qua lối chơi này, đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn chương bình dân của nước nhà. Tiếc rằng hội bài chòi và trò chơi truyền thống của nó từ sau năm 1945 đã mai một dần, đến nay hầu như mất hẳn...
Đào Đức Chương
.
Bài viết các chi tiết khá rõ ràng dễ hiểu, Người đọc hình dung được môn nghê thuật Bài chồi truyền thống,cũng như quá trình hình thành và phát triển .Đây là tài liệu quí .
Trả lờiXóaCảm ơn TG và QTBK đã đăng bài viết trên .